Rea Blog – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:06 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Rea Blog – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Chiều đông thương khói trên đồng https://trithucdoanhnhan.net/chieu-dong-thuong-khoi-tren-dong/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1696

Nhiều khi, thấy thương, thấy nhớ, thấy tiếc những ruộng đồng mà ta không thể nào quên lãng. Về làng, đâu đó đã mọc lên nhà cửa, dự án… thế mà vẫn cứ nhớ từng mảng non xanh, vàng ruộm và khói đốt đồng bay lên.

Mùa này, hễ có việc rời khỏi phố thị ồn ào đông đúc, ra tới vùng ngoại ô đã thấy hun hút, thênh thang một bầu không khí khác biệt. Những cụm cỏ lau, có gà dại ken dày trên đất trống. Những thửa ruộng sau mùa gặt trơ gốc rạ, ngun ngún khói đốt đồng. Thứ mùi ngai ngái, hoai nồng, âm ấm thoảng trong không gian, gặp sương gió cứ quyện lại vừa gần gụi, vừa thân thương. 

Và lại nhớ làng. Nhớ những chiều trẻ trâu thơ thẩn trên cánh đồng khô khốc bắt cào cào, muồm muỗm. Nhớ từng cơn gió đầu đông hun hút thổi qua những bụi duối cổ thụ phía Tây làng. Nhớ ai đó đi đốt rạ vẫn lom khom tát từng vũng nước đọng để bỏ giỏ chút tôm cá, cua ốc mang về cho kịp bữa chiều. Bao nhiêu lấm láp, gian khó và mơ mộng đã mông lung bay lên cùng làn khói ấy. Khói ngai ngái, cay cay vương vất trên đồng. Trẻ trâu ngày xưa vừa chăn trâu, cắt cỏ, vừa rủ nhau tìm hang chuột đồng để vây bắt. Sau mùa vụ, lũ chuột con nào con nấy béo tròn núc ních, trốn kỹ trong hang. Bắt được giống chuột ấy mà nướng lên thơm lựng bằng chính rơm rạ trên đồng thì khỏi phải nói. Mùi thịt thơm, mùi khói, vị ngọt thơm bùi béo đủ xoa dịu sự cồn cào đói rét. 

Bây giờ, kể lại câu chuyện này, ngay cả với trẻ nhỏ thôn quê, có thể chúng cũng thấy xa xôi, lạ lẫm. Là bởi bây giờ, trẻ con không thế nữa, và ruộng đồng cũng đã khác xưa. Làm sao có đám mục đồng chạy chơi khắp chốn, rồi nhặt nhạnh, đuổi bắt và ăn tất tật những gì có thể ăn. Những bông lúa nếp sót lại hơ lửa nổ bỏng trắng ngần, thơm thơm. Những con muồm muỗm béo ngậy, giòn tan. Hai cái đùi chuột đồng căng bóng, vàng ruộm những thịt là thịt. Rồi thì cua, ốc, ếch, cá, tôm… gì cũng nướng. Thành ra, khói đồng đâu chỉ riêng khói rạ rơm mà còn ôm ấp cả khoảng trời tuổi thơ đầy bao dung, thơm thảo và mơ mộng. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Bao nhiêu lấm láp, gian khó và mơ mộng đã mông lung bay lên cùng làn khói ấy. Khói ngai ngái, cay cay vương vất trên đồng. (Ảnh: Vũ Anh Dũng)

Có lúc, ngồi ven chân ruộng, ngắm khói chiều bảng lảng bay trong hoàng hôn, tưởng tượng ra muôn dáng hình từ ngọn khói, lũy khói, bụi khói ấy. Một lùm cây um tùm. Một nàng tiên đang múa. Một mái đình cổ kính nét cong cong. Rồi càng về tối, mọi thứ sẽ tan loãng ra, hòa vào gió về tít tắp cuối chân trời. Dắt trâu về, thắc thỏm nhìn cái bụng hẵng chưa no, lộ ra những dẻ xương sườn gầy guộc, trẻ nhỏ bắt đầu lo bị mẹ cha trách mắng mải chơi không lấy cỏ cho trâu. Mùa này, trâu gặm ruộng khô biết bao giờ cái bụng tròn căng như cái trống. Ngay trong bước đi có vẻ đủng đỉnh, thảnh thơi kia cũng chứa đựng sự nhẫn nại và chịu đựng. Ở từng chòm xóm, nóc nhà, khói bếp bắt đầu bay lên cùng mùi cơm mới, mùi cá kho lá nghệ lá riềng.

Có nhà cầu kỳ, mùa này còn tát đầm, vét sạch đến từng con rô con giếc kho nồi lớn nồi bé rồi mới đem phơi bằng nong, bằng nia ra giữa sân nhà. Nắng hanh, cá kho rút sạch nước, thành loại cá khô có thể ăn liền. Đó là món ăn đưa cơm trong những ngày mưa dầm giá rét độ giêng hai. Bấy giờ, chỉ cần lấy bọc cá gói kỹ gác trên gác bếp xuống, gắp dăm con là đủ bữa ăn. Cá mặn, ngấm hết mắm muối nên phải ăn dè. Dắt trâu vào ngõ, ngang qua nhà nào đang đặt nồi kho cá làm món để dành ấy là biết ngay. Khói bếp bay lên cùng mùi thơm của riềng của nghệ, của lá găng, lá gấc. Dù trong cảnh thiếu thốn, đói nghèo, khói rạ rơm trên đồng hay trong từng gian bếp nhỏ vẫn thoảng dư vị ấm nồng, an ủi, chở che. 

Sáng sáng, qua từng lũy tre, bờ giậu, lúc sương còn chưa tan, không ai đốt đồng cả bởi rạ rơm hẵng ẩm ướt. Nhưng trong làn sương mỏng manh vây bọc ngôi làng nhỏ, trong hơi nước bốc lên từng những ô, những vũng đọng lại trên mặt ruộng, nhánh kênh… vẫn mang mang hơi khói. Thật khó diễn tả cho trọn vẹn mùi khói vương vấn, lưu luyến, quẩn quanh ấy. Khói đồng như những vòng tay mơ hồ, trìu mến tỏa lan trong không gian yên ả của làng quê. Khói đồng như bộ xiêm y huyền hoặc, mong manh mùi lúa, mùi cỏ quấn quýt quanh làng. Khói khiến vẻ mộc mạc, ảm đạm mùa đông thêm phần dịu lắng, ảo mờ hơn. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Người nông dân đốt đồng sau khi mùa vụ đã xong, và bao giờ cái cảm xúc khi ấy cũng nhẹ nhõm, khấp khởi. (Ảnh: VnExpress)

Trong nông nghiệp, gốc gác của việc đốt đồng rất thực tế. Đầu tiên đó như một cách dọn dẹp từng thửa ruộng, cho cháy rụi hết những gốc rạ, cỏ bụi, rác rưởi… đồng thời cũng diệt trừ sâu bệnh, để lại lớp tro màu mỡ trên mặt ruộng. Nhưng khi ruộng đồng còn lớp tro mới thì không gieo trồng được gì cả, bởi nhiều hoạt chất chưa qua quá trình ô-xy hóa có thể gây phản ứng, “xót” cho cây trồng. Nghĩa là, sau đốt đồng, lớp tro mùa vụ cần ngấm đủ nắng mưa, các chất tự nhiên để “ăn” vào đất đai, thành ra sự màu mỡ đầy tươi mới. 

Người nông dân đốt đồng sau khi mùa vụ đã xong, và bao giờ cái cảm xúc khi ấy cũng nhẹ nhõm, khấp khởi. Nếu vụ vừa qua mưa thuận gió hoa, mùa màng bội thu thì đương nhiên vui mừng, phấn chấn. Vừa đốt có khi còn lẩm nhẩm hát những câu ca dao, những khúc dân ca thôn dã. Nếu chẳng may vụ cũ gặp thiên tai, mùa màng thất bát, thì đốt đồng cũng như cách mong kết thúc sự run rủi, để nhóm lên hy vọng mùa sau “trời chẳng phụ lòng người”. Chỉ có lũ trẻ luôn hồn nhiên, vô ưu. Có thể lơ đễnh mặc trâu gặm cỏ tít phía xa mà lao vào giữa đụn khói nghi ngút để chơi trò “Bụt hiện ra và hỏi: Vì sao con khóc?”, rồi có đứa sẽ vào vai người nông dân nghèo, với bao nhiêu điều ước ao, giãi bày mà phần lớn chúng nghe lỏm được từ người lớn. 

Sau này, có dịp đi nhiều nơi, dường như tôi đều thấy nơi nào có đồng ruộng thì nơi đó có đốt đồng. Khác chăng là phong tục, hình ảnh của những con người chung quanh đó. Đồng bào các dân tộc ở miền núi phía Bắc đốt nương để trồng tỉa ngô trên núi cao. Dọc theo con đường dốc quanh co, ngoằn ngoèo, thấy thấp thoáng trên lều canh nương một bầy trẻ nhỏ. Đứa bò, đứa đứng, đứa ngồi. Cạnh đấy có khi còn có bà mẹ trẻ vừa đốt nương xong tranh thủ cho con bú. Xa xa chút là ông chồng vừa xong việc và đã liêng biêng men rượu ngô. Khoảnh nương mới đốt hẵng còn khói. Khói từ đó bò lan, lẫn vào cây, vào rừng, bao bọc cả cái lều canh nương nhỏ bé. Khung cảnh thật bình yên và cũng nhiều cơ cực. 

Ở miền Tây Nam Bộ, khói đốt đồng vương mùi cỏ ngọt. Ngồi trên xe đò, băng qua con lộ nhỏ đã thấy mùi khói. Bác tài cất giọng hát bâng quơ “coi khói đốt đồng để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng…”. Với thời tiết đặc trưng của Nam Bộ, sau khi đốt đồng một thời gian, rơm còn sót lại bà con vun thành đống cộng với lớp tro ẩm ướt sau mưa sẽ mọc ra nấm rơm đồng tự nhiên tròn vo như trứng gà, béo ngọt, sần sật, một đặc sản thiên nhiên, khí hậu, ruộng đồng ban tặng cho những con người cần cù, chân chất. 

Xứ Nam Kỳ xưa, nông dân trồng lúa không nhọc nhằn như đất Bắc. Chỉ cần gieo “sạ” (một kỹ thuật giản đơn, gieo hạt lúa đã nảy mầm xuống thẳng ruộng và chờ ngày gặt hái thay vì phải gieo mạ, nhổ mạ, cấy lúa) rồi chờ ngày thu hoạch mang về. Trong Nam cũng ít phải gom rơm đánh đụn như ngoài Bắc, nên phần lớn rơm rạ đều đốt. Thành ra khói đồng có thể cũng nhiều hơn. Chưa kể, có những vùng ngập nước, không cần “sạ” mà vẫn có lúa ăn. Người dân quen gọi là “lúa trời” hoặc “lúa ma”, sinh trưởng tự nhiên mọc trong vùng nước ngập. Nước ngập tới đâu, thân lúa vươn tới đó, có khi dễ đến cả mét. Ở những vùng này, đương nhiên không ai đốt đồng, và hễ mùa sau lúa không lên thì nơi chốn ấy cũng rơi vào quên lãng. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Chiều đông thương khói trên đồng

Khói đồng đâu chỉ riêng khói rạ rơm mà còn ôm ấp cả khoảng trời tuổi thơ đầy bao dung, thơm thảo và mơ mộng. (Ảnh: Internet)

Nhiều khi, thấy thương, thấy nhớ, thấy tiếc những ruộng đồng mà ta không thể nào quên lãng. Về làng, đâu đó đã mọc lên nhà cửa, dự án, công trình… thế mà lạ thay, vẫn cứ nhớ từng mảng non xanh, vàng ruộm và khói đốt đồng bay lên. Nhớ nhất là quãng đầu đông, sau vụ mùa. Tôi vẫn thường thơ thẩn, nghĩ ngợi. Có ai đi nhớ khói bao giờ? Đám trẻ ngày xưa như lạc vào cổ tích. Vẫn mải miết đuổi bắt cào cào, muồm muỗm, chuột đồng… Vẫn tưởng tượng khói hình người, hình chùa chiền, cây cối… 

Làng quê đã mang dáng vẻ phố thị, ruộng đồng cũng thu hẹp lại, và chẳng ai còn đốt đồng, sợ điều tiếng “gây ô nhiễm”. Đất chật người đông, khu dân cư, trường học, nhà máy gần thế thì cái thứ khói lành hiền từ rơm từ rạ đương nhiên cũng thành ô nhiễm, ngột ngạt. Là bởi đã không còn khoảng cách thênh thang của không gian nữa. Ngày xưa, ra ruộng đồng trẻ chạy mỏi rã chân, nhà nào rạ rơm nhiều lắm thì vẫn không khiến những đám khói, đụn khói bay được vào làng. Chưa kể, xưa chỉ thuần rạ rơm, cỏ bụi… mà nay ruộng đồng phần nhiều rác rưởi, chất thải trôi dạt từ đẩu từ đâu chung quanh những nhà máy, công trình, hộ dân… nên khói đã không thuần là khói. 

Nhiều địa phương kêu khổ, than vãn bởi khói đốt đồng. Nhiều làng quê ra lệnh cấm, lệnh phạt. Bởi khói bây giờ đâu như khói ngày xưa. Mừng vì sự “thay da đổi thịt”, mà cũng thương bởi những điều chân chất đã nhạt nhòa, những thênh thang mênh mang đã dần thu hẹp. Tất cả thuận theo lẽ tự nhiên, theo quy luật phát triển. Chỉ có ký ức, kỷ niệm và sự riêng tư trỗi dậy trong lòng là chẳng chịu theo một quy luật nào, cứ bị dẫn dắt bủa vây bởi cảm xúc. Mà cảm xúc thì như khói, lúc thành đụn, thành bụi, thành mảng. Lúc mong manh thành dòng, thành sợi vương vít dịu dàng và ám ảnh sâu xa. Thương khói, cũng bởi có bao nhiêu hình bóng đã lần lẫn đó đây, đã không còn trở lại, đã chập chờn trong giấc mộng của ta giữa phố thị với niềm nhớ thương, tiếc nuối dâng đầy./.

]]>
Vàng đen trong lòng tay thợ lò https://trithucdoanhnhan.net/vang-den-trong-long-tay-tho-lo/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1702

Và giấc mơ mua đất, mua nhà riêng của thợ mỏ đang dần dần tiến tới sự an cư lập nghiệp, cho cuộc đời thợ lò làm ra vàng đen, cầm nắm vàng đen trong lòng tay…

Thật hiếm có ngôi chùa nào đẹp như chùa Cái Bầu ở Vân Đồn, Quảng Ninh. Chùa có Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm mặt hướng ra biển. Ở đó mỗi sớm, tôi hay gặp những sư cô trẻ tuổi, họ đang tu tập, quét lá, cắm hoa và cầu nguyện. Mỗi người có một phận đời như một cây thông trên đỉnh núi, mỗi cây thông thường nhìn biển cuối ngày vỗ sóng lên bờ đá mà sắc sắc không không. Khác hẳn với bậc chân tu, ngày nghỉ cuối tuần nhiều thợ mỏ ở ven biển đã ra bãi biển mua sắm và ăn uống.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Chùa Cái Bầu ở Vân Đồn, Quảng Ninh (Ảnh: HVH)

Gần nhất là mỏ Mông Dương chỉ cách một sải bay chừng 2 cây số, xa hơn là mỏ Vàng Danh, Đèo Nai. Ngày mới, những người thợ mỏ vào ca vừa náo nhiệt vừa tưng bừng, khác hẳn không gian tĩnh lặng ở Thiền viện Trúc Lâm. Thị trấn Mông Dương bây giờ sầm uất hơn xưa, nhưng về hàng hóa tiêu dùng hằng ngày cho vài ngàn người công nhân trên mỏ thì thấy thị trấn còn khan hiếm nhiều thứ, mặt hàng tiêu dùng chưa phong phú cho đời sống thợ mỏ như trên thành phố lớn. Thợ mỏ ở Mông Dương sang Hà Lầm, hay xuống mỏ lộ thiên Đèo Nai gần đó, cũng đang rất cần một nguồn cung cấp sản phẩm tiêu dùng thiết thực cho cuộc sống của những người thợ đầy nỗi vất vả.

Thợ lò. Đó là một nghề chuyên biệt, đặc biệt khi họ làm việc dưới độ sâu lòng đất 300 mét so với mực nước biển.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Ảnh: Internet

Đời thợ mỏ ngày nay đã khác xưa rất nhiều. Không chỉ có người dân địa phương ở Đông Triều, Uông Bí hay Mông Dương, mà thợ hầm lò bây giờ ở các mỏ của ngành than Việt Nam được chú trọng tuyển dụng với xa hơn tầm tay. Đó là đội ngũ thợ trẻ từ các vùng núi cao, trung du, ví dụ như thợ lò người dân tộc Dao, Mông, Tày ở Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên đến học nghề để làm thợ mỏ. Và cũng không thiếu cái khó cho công ty than khi tuyển dụng công nhân, có năm chăm lo đào tạo học nghề xong, thợ lò đi làm thấy khó, thấy cực, họ bỏ việc. Với khoảng trống ấy, ngành than đã tìm mọi giải pháp tháo gỡ để giữ chân người thợ lò ở lại với nghề. Dù khó đến mấy thì công tác chăm lo đời sống vật chất cho công nhân đạt hiệu quả toàn diện trong bữa ăn giấc ngủ, nhà ở và sinh hoạt là vô cùng quan trọng.

Mỗi mùa xuân, mùa lễ hội, các hoạt động văn nghệ, nhu cầu giao thoa văn hóa ở đất mỏ cũng đa sắc hơn. Người ở núi múa sạp, nhảy sạp thổi khèn Mông, hòa ca với làn điệu dân ca đồng bằng của thợ lò Bắc Bộ. Tất nhiên, thợ lò vẫn có người từ Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh và các vùng lân cận như Quảng Yên, Uông Bí đến mỏ Mông Dương, Vàng Danh, Hà Lầm làm việc.

Đến đây, bạn sẽ được chứng kiến một cuộc đổi mới toàn diện trong đời sống thợ lò khi họ đi làm thợ và không phải lo nhà ở nếu được tuyển dụng. Ở các mỏ than Vàng Danh, Mạo Khê, Mông Dương, Hà Lầm, mọc lên hàng loạt tòa nhà chung cư hiện đại, có thang máy, mỗi công nhân được công đoàn và lãnh đạo tập đoàn than chăm lo tới từng bữa ăn giấc ngủ. Phòng ở được trang bị điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, tivi; có bể bơi và sân chơi bóng bàn, bóng đá, có bàn bi a. Ở mỏ Vàng Danh có hẳn phòng máy đặt ghế mát sa cho công nhân khi cần nghỉ dưỡng. Và khi đi đến mỏ, tôi mới thấy rõ được sự đổi mới từng ngày trong đời sống của thợ lò.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Chủ tịch Công đoàn Vũ Đình Việt với thợ lò ca ba mỏ Vàng Danh. (Ảnh: HVH)

Tôi đi ca ba, gặp nhân vật điển hình của mỏ Vàng Danh đang nỗ lực để trở thành anh hùng lao động (AHLĐ) trong thời kỳ đổi mới, đó là thợ lò Phạm Đình Duẩn. Anh còn trẻ, 38 tuổi, đã có 17 năm làm thợ và từng được đi nhiều nước châu Á, cũng từng trải những mất mát khổ đau của cuộc đời thợ lò. 17 năm, Phạm Đình Duẩn còn rất trẻ so với AHLĐ Nguyễn Văn Tía ở mỏ Mạo Khê có 33 năm làm thợ lò. Hằng ngày với nhịp sống, cứ đi xe từ nhà đến cửa lò mất đúng một tiếng; vào nhà ga than chờ đi tàu (song loan) vào gương than mất thêm một giờ nữa; tan ca, tắm giặt, ăn đêm mất một giờ. Cộng lại một ngày, thời gian đi lại chờ đợi thì thợ lò mất từ 12 – 13 tiếng đồng hồ. Còn lại phải ngủ, lấy sức và dành dụm thời gian cho vợ con.

Bạn thợ của Duẩn những năm vừa mới lên làm mỏ, có người từng bị vợ bỏ, vợ chê nghèo. Cảnh gà trống nuôi con một mình trong 7 – 8 năm, đơn chiếc, khiến Duẩn thương xót bạn vô cùng. Lại có năm thợ lò bị ngạt khí, bạn mất đúng vào dịp Tết, mà vợ còn rất trẻ, con còn bé tý. Công ty đã tìm cách nhận vợ thợ lò vào mỏ, làm ở bếp ăn hay nhà đèn, tạo việc làm tình nghĩa cho đời sống hậu phương của người thợ mỏ. Những mùa xuân ấy đối với Duẩn là những hy vọng cho tương lai ở bến đợi sân ga than.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Bữa ăn đêm của thợ lò mỏ Vàng Danh (Ảnh: HVH)

Duẩn đã đóng góp rất nhiều sáng kiến cho việc khai thác lò. Ở Việt Nam, máy khoan thủ công chưa phát triển, công nghệ máy đào lò, máy khấu than chưa đuổi kịp công nghệ cao như ở hầm Nhật Bản. Và sau mỗi chuyến đi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia…, thợ lò Phạm Đình Duẩn nhìn xa rộng hơn, anh hiểu thợ lò Nhật Bản có đời sống cao hơn ở Việt Nam, họ được trang bị cả máy móc công nghệ cao, đỡ tốn sức hơn thợ lò Việt Nam. Và Duẩn chịu khó mày mò học hỏi, vừa làm vừa học xong thạc sỹ, dù anh vẫn làm thợ lò để tìm cách đóng góp nhiều sáng kiến cải tiến trong lao động sản xuất, nắm bắt thực tiễn trong hầm lò ở Vàng Danh. Anh luôn tâm niệm phải gắng làm sao cho hiệu quả khai thác than công suất cao mỗi tháng mỗi năm.

Mỏ than vẫn còn nhiều máy khoan thủ công chưa phát triển như công nghệ khoan ở hầm lò Nhật Bản hay Hàn Quốc. Máy khấu than ở các nước đều đi trước ta một bước, họ có công nghệ tiên tiến nhằm giải phóng sức lao động chân tay cho con người. Duẩn đi thực tế 3 tháng, giấc mơ sáng kiến nhân rộng sau khi đi hầm lò ở Kushiro (Nhật Bản), anh quan sát và khát vọng cháy bỏng hơn để nỗ lực đóng góp sức mình cho mỏ.

Thực tế nhìn đời sống thợ lò ở Nhật, ở Trung Quốc hay Hàn Quốc đã khiến anh tự đặt câu hỏi: “Vì sao cách khai thác ở mỗi nơi trong lòng đất lại khác nhau và giống nhau để tìm ra những vỉa quặng mới, khai quật loại vàng đen mới trong hầm sâu, giải pháp cho người lao động sao cho năng suất hiệu quả”… Nhưng sự khác nữa, đó chính là đời sống của công nhân mỏ Nhật Bản rất cao và họ nhàn hơn so với công nhân Việt Nam một phần nhờ máy móc công nghệ hiện đại. Duẩn mơ ước Việt Nam cũng sẽ tiến tới khoa học công nghệ cao phục vụ cho ngành khai thác mỏ giống như Nhật Bản.  

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Vàng đen trong lòng tay thợ lò

Bể bơi, phòng tập thể thao và máy mát sa cho công nhân mỏ. (Ảnh: HVH)

Tôi gặp thợ điện Phạm Quang Thiều mới 30 tuổi, trực bơm ở trạm phân phối điện 6kV cho toàn bộ hầm lò, em cho hay: “Bọn em đi làm rồi về phòng đọc sách, hôm nào mệt quá không bơi lội thì đi nằm ghế mát xa. Chúng em cũng cố gắng học thêm, đứa chơi ghi ta, học thêm ngoại ngữ nữa, chỉ có điều thợ mỏ toàn con trai, hơi hiếm bạn gái. Tuổi 30 – 35, chúng em đều chưa có người yêu”. Nếu làm phép tính trừ đi những thợ lò có vợ ở quê, còn trai tráng thợ lò thì hiếm gặp gỡ được bạn gái ở đường xuống mỏ.

Khác với các thợ lò dân tộc Kinh hay thợ lò ở mỏ Mông Dương, thợ lò Hoàng A Phềnh ở huyện Đại Yên, Sơn La đi làm thợ được 6 năm rồi. Anh cho hay, cùng bạn thợ với anh có bạn Mùa A Dua và Chả A Qua cũng làm dân thợ mỏ. Hồi trước ở làng cũng có người đi làm thuê bên Đông Hưng (Trung Quốc), đi đóng hải sản thuê khổ lắm mà thu nhập không có bao nhiêu. Được đi làm thợ mỏ, học hỏi, làm được 26 công có thu nhập 24 triệu một tháng nên vui lắm. Một năm gửi về nhà cho vợ được 70 triệu, em vừa xây xong nhà có máng nước, có bể nước tiện nghi.

“Được làm chủ đời mình trên đất nước mình sướng hơn đi làm thuê cho nước ngoài. Dù có đi làm ở Campuchia hay Malaysia, Đài Loan đều thua mình, không đâu bằng ở nhà mình”. Hoàng A Phềnh khẳng định thế! Chỉ mới 6 năm làm thợ lò, con của vợ chồng A Phềnh được đi học không lo thiếu chữ, con của Mùa A Dua cũng vậy. Nhà của Chả A Qua còn nghèo nhưng cũng lợp xong mái, mua được hai con trâu để nhân giống cấy cày. Đời thợ mỏ được lo từ chỗ ngủ đến bữa ăn trưa, ăn sáng, về nhà chỉ lo một bữa thôi, công ty còn lo trang bị thêm đủ thứ từ túi xách, ba lô về quê. Phòng ở không có máy giặt cũng được công đoàn lo giúp đỡ. Không chỉ ở Vàng Danh, Mông Dương, Hà Lầm hay Mạo Khê mà các mỏ than khác cũng đã được giám đốc, đội ngũ công đoàn chăm sóc thấu đáo đến đời sống vật chất và tinh thần thợ mỏ. Và giấc mơ mua đất, mua nhà riêng của thợ mỏ đang dần dần tiến tới sự an cư lập nghiệp, cho cuộc đời thợ lò làm ra vàng đen, cầm nắm vàng đen trong lòng tay.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Ảnh: Internet

Mỗi ngày, thiên nhiên ở biển Vân Đồn hay biển Hạ Long, mặt trời vẫn chiếu sáng như xưa, trăng cũng vằng vặc như xưa, chỉ có biển Quảng Ninh dồn chật lại, Vân Đồn đang lấn biển xây chợ quê, khu giải trí cho nhân dân. Ở Hạ Long chỉ có những con đường nhỏ đi ra biển. Sự giàu có hiện đại ở miệt biển này cũng đang đánh thó, đánh mất sự hoang sơ của biển, sự hoang vu của sóng.

Và ở Vàng Danh, Mông Dương hay Hà Lầm, Mạo Khê đã có quy hoạch kiến trúc nhà ở cho công nhân trở nên khang trang, đẹp đẽ. Nhưng bên cạnh đó ở thị trấn Mông Dương, dân ngụ cư vẫn xây nhà theo cách nhỏ lẻ, manh mún nhấp nhô. Điều này cũng đang đặt ra câu hỏi nhỏ về kiến trúc nhà ở công nhân ngành than và câu hỏi lớn cho các nhà quản lý đô thị ven biển.

Và không chỉ nhìn tỉnh Quảng Ninh mà còn nhìn nhiều thành phố miệt biển của Việt Nam trong tầm nhìn mới, cục diện mới./.

]]>
Bí đỏ mơ màng giữa bãi sông https://trithucdoanhnhan.net/bi-do-mo-mang-giua-bai-song/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1711

Ngày ở quê, từ tuổi trẻ trâu cho tới thời mới lớn, lúc nào tôi cũng thích ra ngoài bãi sông vào cuối thu, đầu đông xao xác gió. Bờ bãi quyến rũ một cách lạ kỳ, dù đã qua cái mùa mọi thứ non xanh mơn mởn.

Cuối thu, sắp sửa sang đông, khí trời cứ hiu hắt hanh hao, lúc nắng lúc mưa, ẩm ương bất chợt. Tâm tính con người bởi thế cũng trở nên thất thường, cáu bẳn. Bất chợt ước ao, giá như lúc này, được thỏa thuê ngắm nghía, chạy nhảy giữa một bãi sông hun hút gió thì bao bức bối phút chốc sẽ vợi đi. Rồi khi xót dạ xót lòng, lại ước được bát chè bí đỏ của bà, của mẹ nấu năm nào. Là bí đỏ đang chín mơ màng suốt dọc bãi sông kia. Dư vị ngọt ngào, thơm mát khi sốt sắng, lúc nhẩn nha ấy như vỗ về, chiều chuộng cái cảm giác chộn rộn, không yên giữa tiết chuyển mùa.

Ngày ở quê, từ tuổi trẻ trâu cho tới thời mới lớn, lúc nào tôi cũng thích ra ngoài bãi sông vào cuối thu, đầu đông xao xác gió. Bờ bãi quyến rũ một cách lạ kỳ, dù đã qua cái mùa mọi thứ non xanh mơn mởn. Mùa này, hoa màu đã thu hoạch xong, thân úa và lá úa được chất đống lại, nhà nào nhanh gọn đã kịp đốt thành tro chăm bón cho từng thửa ruộng. Mùi lá khô, mùi than tro, mùi phù sa quyện vào trong gió. Thứ mùi thơm thật lành hiền, chân chất, vấn vương. Hết mùa vụ, nông dân được ngơi nghỉ ít lâu, không phải sớm hôm dãi dầu, đó cũng là quãng thời gian đám trẻ trâu thỏa thuê nhất. Cứ chạy chơi bạt mạng, nào thả diều, đuổi bắt, trận giả… chẳng phải lo giẫm đạp lên hoa màu, cây cối rồi bị người lớn quở trách nữa. Từng bước chân chợt rộng dài thêm. Những tiếng reo hò cũng lảnh lót vang xa khắp chốn.

Bí đỏ mơ màng giữa bãi sông
Bờ bãi luôn quyến rũ một cách lạ kỳ. (Ảnh: Internet)

Trên đồng bãi, chỉ còn duy nhất một giống cây chưa vội thu hoạch dù đã đến kỳ, là bí đỏ. Có đủ nguyên do hợp tình hợp lý cho sự thong thả này. Bí đỏ vốn không phải hoa màu để tính toán gieo trồng, thu hoạch đúng mùa, bán lấy tiền. Đó chỉ là giống cây trồng xen canh chân ruộng. Thường thì các nhà không trồng bí cùng lúc với hoa màu, mà phải chờ những thân ngô lớn lên, quá đầu gối người lớn, khi ấy mới bắt đầu trồng bí. Nhà nào gieo hạt thì có thể gieo sau ngô một chút thôi. Nghĩa là cây hoa màu chính phải đủ lớn để chắc chắn không bị lấn lướt, chèn ép, mới tính tới xen canh. Bây giờ, khắp các chợ từ thành thị đến nông thôn đều đầy ngợp sản phẩm từ bí đỏ: Ngọn bí, nụ hoa bí, quả bao tử, quả xanh, quả chín… chứ xưa kia, giống này gần như các nhà tự cung tự cấp. Nhà nào trồng, nhà ấy thu hoạch lá nấu canh, ngọn xào tỏi hoặc luộc chấm mắm cáy.

Mỗi lần ra bãi sông hái rau, bà ngoại tôi không quên dặn cháu đừng hái hoa, nghịch quả, phải trông chừng từ lúc quả còn non. Dần dần, những quả bí to bằng vốc tay, bằng quả bóng, bằng cái rổ rồi bằng cái thúng. Đó là giống bí khổng lồ, lại thêm bãi bồi phù sa màu mỡ. Lũ trẻ chúng tôi khi đã chán chạy chơi thường sẽ rong ruổi từng thửa ruộng, đọ xem bí nhà ai to nhất. Thân bí đã héo quắt, lá cũng tàn, chỉ còn ngổn ngang toàn quả là quả nằm lăn lóc chờ thu hái. Những quả bí tròn, lộ hình múi, già đanh, có lớp phấn trắng bao phủ lên màu đỏ cam rực rỡ. Đất đai đã khô, mùa mưa đã qua, không thu hoạch ngay cũng chẳng lo gì.

Sẽ có một ngày người dân quê tôi chọn lựa và rủ nhau thu hoạch bí. Phải rủ nhau bởi nhà nào cũng bao nhiêu tạ quả, mang cả xe thồ, quang gánh xếp hàng dọc bãi sông. Cả vùng trông đợi làng tôi hái bí, cắt xẻ bí mang xuống chợ bán để mua về nấu chè, nấu cháo, làm bánh… Không có ngày hội Halloween, nhưng miền quê nghèo vẫn có ngày hội đầy ấm no sau mùa vụ. Lúa đã đầy bồ, ngô đã đầy bếp, hái bí hay không chẳng quan trọng gì, việc ấy đơn giản là cái cớ để cả làng gặp gỡ, chung vui. Nhà nào bội thu đến mấy thì cũng chục chuyến xe thồ là xong, tức là chỉ trong buổi sáng. Vậy nhưng cứ được thể rề rà, la cà, thư thả. Đàn ông ngồi quây quần dưới mấy bụi dứa dại hút thuốc, uống nước chè xanh. Phụ nữ vừa cầm liềm cắt bí ở nhà mình xong, lại tạt sang ruộng nhà hàng xóm hỏi han trò chuyện. Nhà này có cụ ông vừa ốm dậy. Nhà kia con bò lạc sang đồng bên mãi mới tìm được về. Rồi chuyện sắp tới Tết xong có tới mấy đám cưới hỏi. Người làng mình lấy chồng bên kia sông.

Bí đỏ mơ màng giữa bãi sông
Bí đỏ mơ màng giữa bãi sông

Những quả bí tròn, lộ hình múi, già đanh, có lớp phấn trắng bao phủ lên màu đỏ cam rực rỡ. (Ảnh: Internet)

Buổi ấy, tôi nhớ rằng mình ngồi ung dung trên một quả bí. Quả bí như chiếc ghế, và nó to đến mức tôi ngồi thật thoải mái, nhìn sang bên kia sông. Bác gái tôi lấy chồng bên ấy, sắp tới mấy cô gái làng cũng về bên ấy làm dâu. Tôi nhớ dáng người đậm chắc, tròn lẳn của bác mỗi lần về giỗ ông. Nhớ nụ cười hồn hậu, hàm răng hơi khênh khểnh. Nghe đâu, bên ấy không trồng bí đỏ, cũng không có mùa bí đỏ, nên đầu đông, bác tôi qua đò, sang bên này cùng mẹ tôi xẻ bí mang về nấu chè nấu cháo. Có khi, bác còn quẩy quang gánh sang, hai đầu là hai chiếc thúng, mẹ tôi xếp bí cho bác mang về, lại xẻ ra và bán cho các nhà lân cận. Lũ lĩ toàn bí là bí về được phết vôi vào trôn, vào cả thành quả, thành từng hình dấu cộng rồi lăn xuống gầm chạn bếp, gầm giường, đại khái là dưới nền nhà, mà đa phần là nền đất. Người lớn bảo đấy là cách bảo quản tốt nhất, bền nhất.

Thực ra, lũ trẻ không mấy quan tâm, chỉ hau háu chờ những buổi bà hoặc mẹ nấu chè. Cùng là bí đỏ ven sông, nhưng nồi chè mỗi nhà một khác. Nhà nào sung túc, chu đáo thì có thêm đỗ đen, đỗ xanh, dừa nạo. Tuyệt nhất phải cho khoai khô đánh nhuyễn với bí. Vẫn biết nhà nào cũng ngổn ngang thứ quả này trong nhà, nhưng nồi cháo nồi chè cứ biếu xoay vòng, nhà này mang sang nhà nọ. Mấy nhà làng tôi còn nấu bán ở chợ phiên, đắt hàng nhất là hôm nào trời nổi gió heo may, các bà hàng cá biển bủn rủn người, không thiết trông nom bán chác, túm tụm ăn quà. Vị ngọt bùi, ấm nóng tỏa lan. Chẳng cần đường hay gia vị nào khác, món chè món cháo vẫn cứ dẻo thơm, sóng sánh đến nao lòng. Từ đầu chợ đến cuối chợ, góc nào cũng thơm nức hương bí đỏ.

Đôi khi, giữa phiên chợ ấy, khi chờ bà ngoại bán chè, tôi thường thơ thẩn, nhớ các chị họ mình. Gia đình tôi hơi đặc biệt. Mẹ đẻ của bác gái tôi qua đời từ rất sớm. Ông tôi đi bước nữa với bà ngoại tôi và sinh ra mẹ. Tôi nhớ, mỗi lần nấu chè, trước lúc gánh đi chợ hoặc múc cho con cháu trong nhà, bà ngoại tôi đều múc ra những chiếc bát thang đặt lên ban thờ, thắp hương cho “chị cả”. Bác tôi lấy chồng bên kia sông nên càng thêm xa cách. Mỗi lần làm một món ăn nào đó, dù là nộm hoa chuối hay nồi cháo, bát chè… bà đều nhắc về bác – đứa con xa xôi mà bà chưa từng phân biệt con chồng, con mình. Bà cũng lại phân vân chuyện các chị tôi chẳng biết có nồi chè mà ăn không, hay mẹ nó lại xẻ bí mang đi bán. Niềm vui chưa bao giờ trọn vẹn bởi nỗi lo toan, áy náy cứ đong đầy.

Quê tôi bây giờ bờ bãi vẫn mênh mang, nhưng không nhà nào trồng bí đó. Trẻ con cũng chẳng còn chạy chơi nô đùa như lũ trẻ ngày xưa. Tôi nhớ chính giấc mơ của mình, những quả bí đỏ tròn căng, trắng phấn, áp má vào rồi phút chốc đã say sưa. Mùa vụ tròn đầy, lòng người thanh thản, nhưng đâu đó niềm nhớ thương, day dứt vẫn trở về, vẫn chộn rộn. Người ta nhớ nhau, thương xót cho nhau và mơ ước nữa, chính khi tưởng như mọi thứ đã là êm ấm nhất. Chỉ một khúc đoạn ven sông, chỉ một ngày cả làng cùng thu hoạch bí, chỉ là những quả bí đỏ lăn lóc dưới gầm chạn gầm giường, sao gọi về quá nhiều thương nhớ?

]]>
Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế https://trithucdoanhnhan.net/ta-nhan-ra-hai-bo-xanh-den-the/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:23 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2366

Tôi đã từng đằm mình trên dòng sông Nghèn quê hương, uống nước trên những dòng kênh xanh, những ngày đi học. Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy, lại được ngắm nhìn những đoàn thuyền trẩy hội.

Quê tôi có một dòng sông, tên mộc mạc – sông Nghèn. Sông bắt nguồn từ Thị xã Hồng Lĩnh, trườn qua cánh đồng phì nhiêu của Hồng Lĩnh, Can Lộc, Lộc Hà trước khi hòa vào biển cả.

Thuở tôi lớn lên, thủy triều lên xuống, nước sông xanh ngắt. Tôi còn nhớ, bao buổi chiều theo chúng bạn ra bờ sông, lúc thì ngụp lặn, bơi qua sông hái bần; lúc thì ngắm những đoàn thuyền xuôi ngược, đàn sứa dập dìu lúc thủy triều lên.

Tôi từng đọc tác phẩm và bộ phim cùng tên “Cánh buồm đỏ thắm”, nhớ như in một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Nga, Aleksandr Grin. Cánh buồm của những đoàn thuyền nan qua con sông quê tôi, không đỏ thắm, toàn màu nâu, thi thoảng ngư dân vá thêm những miếng màu trắng đục. Có điều tên của tác phẩm làm tôi nao nao nhớ dòng sông, nơi lưu giữ của tôi và chúng bạn cả khoảng trời ký ức.

Không chỉ cho con cá, con tôm, trở thành tuyến giao thông thủy từ xuôi lên ngược và ngược lại, sông còn là chứng tích của một “thời hoa lửa”. Nhà văn Đắc Túc từng có bút ký “Dòng sông bi hùng”, viết về dòng sông này.

“Ngày ra đi/ Ta rất trẻ và sông rất trẻ/ Vừa đi vừa bay, ta vẫn thấy mình sao chậm thế/ Còn sông thì thầm điềm tĩnh chảy giữa bờ ngô!” (Sông Nghèn gặp lại). Nhà thơ, Đại tá, TS. Lê Thành Nghị, người sinh ra và lớn lên cũng bên dòng sông Nghèn, từng có bài thơ giàu cảm xúc như vậy về dòng sông.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
“Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế/ Và nụ hoa trong cỏ tím dường kia!” (Ảnh minh họa: IT)

Rồi vì sự phát triển của quê hương, dòng sông ngưng chảy. Những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, sông Nghèn bị chặn lại ở Đò Điệm (huyện Lộc Là) để “ngọt hóa”, lấy nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Thời ấy, cả nước còn phải lo miếng ăn, bát cơm đầy còn là mơ ước. Thế nhưng, bắt đầu từ đó, biết bao nhiêu vấn đề sinh thái đặt ra, khi dòng sông trở thành ao tù, nước đọng.

“Bao giờ sông lại được khơi dòng?”, tôi từng đem câu hỏi này đặt lên bàn Bí thư Huyện ủy quê nhà. Anh nhận ra, đó là điều nên làm, để xanh lại dòng sông, khôi phục lại sinh thái vốn đã bị phá vỡ, nhưng rồi anh thở dài: “Khó lắm”.

Hóa ra, câu nói: “Chiến thắng chính mình là chiến thắng vinh quang nhất”, không cũ. “Mình” ở đây không phải là cá nhân, mà cả một tập thể, giữa thời cần “tư duy xanh”.

“Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế/ Và nụ hoa trong cỏ tím dường kia!” (Sông Nghèn gặp lại). Nhà thơ thường lãng mạn. “Hai bờ xanh”, “nụ hoa trong cỏ” mà nhà thơ Lê Thành Nghị nhìn thấy, có thể là trong hoài niệm hoặc mong chờ gặp lại.

***

Nhà tôi ở cạnh sông Tô Lịch, ngày nào tôi cũng đi qua đây. Thế nên tôi bị ám ảnh hơn những người dân Hà Nội khác sống xa dòng sông? Có bao nhiêu dòng sông đã chết? Rất nhiều. Các dòng sông như Nhuệ, Đáy, Cầu, Vu Gia, Thu Bồn, Đồng Nai, Sài Gòn… đều ô nhiễm nghiêm trọng, tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu.

Việt Nam ở vào vị trí đắc địa, thiên nhiên hào phóng ban tặng cho đất nước ta những tiềm năng, không dễ đất nước nào có được. Trong những tiềm năng ấy, có các hệ thống sông ngòi từ Bắc đến Nam. Sông trở thành một phần hồn vía của đất trời; người Việt hình thành và phát triển cùng các dòng sông; sông đi cùng lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha; sông là một phần văn hóa phi vật thể, hình thành nên văn hiến Việt Nam.

Thật vậy, hệ thống nước mặt của Việt Nam với hơn 2.360 con sông, suối dài hơn 10km và hàng nghìn hồ, ao. Hai bên các dòng sông người Việt quần cư, lập nên làng, nên xã từ bao đời nay. Lúa trên đồng, tôm, cá dưới nước. Đời người từ thế hệ này, đến thế hệ khác lớn lên bên dòng sông. Văn hóa Việt Nam khởi sinh từ dòng sông.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
Đời người từ thế hệ này, đến thế hệ khác lớn lên bên dòng sông. (Ảnh minh họa: IT)

Gần đây, tôi có dịp diện kiến nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản – TS. Tạ Quang Ngọc. Ông mừng vui vì kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản năm này cao hơn năm khác. Con cá, con tôm Việt Nam đã góp phần tạo nên thương hiệu “thủy sản Việt Nam”, có mặt chững chạc trên những thị trường khó tính nhất như Mỹ, Nhật, EU… và sẽ còn vươn xa nữa. Nhưng nhắc đến các dòng sông, khuôn mặt TS. Tạ Quang Ngọc đượm buồn. 

TS. Tạ Quang Ngọc kể cho tôi nghe câu chuyện đầy ẩn dụ. Rằng, ông Walt Disney, một người đưa thế giới đến cảm giác huyền ảo, nhưng lẽ sống ở đời lại là sự hiện thực và tính khả thi. Ông cho rằng người mơ mộng thì nhiều, nhưng những người biết biến giấc mơ thành hiện thực thì không có bao nhiêu. Rằng, ông Charlie Chaplin khiến thiên hạ ai cũng phải cười khi nhìn ông diễn, khi xem phim của ông, nhưng qua chuyện ông nói với con gái người ta mới biết, cuộc sống thật thì ông khóc nhiều hơn cười.

TS. Tạ Quang Ngọc, từ lâu đã đưa ra quan điểm phải hài hòa tất cả các lợi ích; không thể hủy hoại môi trường để sống bằng mọi giá, nhưng cũng không thể nhịn đói nhìn môi trường trong sạch. Vì thế, ông ủng hộ quan điểm phát triển xanh lam (blue).

***

Vì yêu dòng sông, tôi đã đọc khá nhiều thơ về dòng sông của nhiều tác giả, sáng tác thơ về dòng sông; tuy nhiên khi đọc “Trần Mạnh Hảo – Tuyển tập thơ” (NXB Hội Nhà văn, 2022) – được coi là cuốn sách bán chạy nhất năm 2022, bản thân có những cảm xúc đặc biệt. Hóa ra, ngoài “Sông Lam” đã trở thành thi phẩm được ngưỡng mộ ngay từ khi xuất bản (năm 1983), Trần Mạnh Hảo còn sáng tác về nhiều dòng sông khác.

Đó là, “Những dòng sông miền Trung”, “Sông Mã hồn lìa khỏi xác”, “Sông Hương”, “Những dòng sông Nam Bộ”, “Lời Trưng Nữ vương trước khi tuẫn tiết dưới dòng sông Hát”, “Nhớ con rạm sông Ninh Cơ”, “Rét cóng mẹ vẫn xuống sông mò Tết”, “Con rạm, con hến nuôi anh”…

Hẳn nhiên, Trần Mạnh Hảo là nhà thơ của những cảm xúc đầm đìa tư tưởng, nên những dòng sông trong thơ ông, chở đầy tư tưởng, óng ánh vẻ đẹp tư tưởng. Chỉ cần đọc qua tên các thi phẩm đã đoán định được, trái tim nhà thơ đau đáu về dòng chảy lịch sử trong dòng chảy của sông.

Tất cả mọi dòng sông đều chảy, đó là hiện thực, đồng thời cũng là tên một tiểu thuyết của nữ tác giả Australia, Nancy Cato và bộ phim trữ tình cùng tên “Tất cả các dòng sông đều chảy”. Sự quan sát các dòng sông của nhà thơ Trần Mạnh Hảo khá tinh tế, làm cho “Những dòng sông Nam Bộ” khác hẳn “Những dòng sông miền Trung”.

“… Những dòng sông như người chạy bộ/ Cứ đuổi theo bóng dáng chân trời/ Sông khỏe quá chạy hoài thành châu thổ/ Chạy qua rồi sông để lại lúa khoai/ Để lại lâu đài ruộng nương nhà cửa/ Chỉ mang trời nhập với biển khơi” (Những dòng sông Nam Bộ).

Đẹp đến như thế, hùng vĩ như thế, nhưng sông Tiền, sông Hậu, hay nói chung nhất là hệ thống sông đồng bằng Cửu Long cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ mới của thiên tai (biến đổi khí hậu) và nhân tai (ngăn sông làm thủy điện, khai thác dòng sông đến thô bạo của con người). Năm qua lũ ít về, đó là nguy cơ, là nỗi lo hiện lên trên mỗi khuôn mặt khắc khổ của người nông dân bản địa.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy… (Ảnh minh họa: IT)

Chưa bao giờ, đa dạng sinh học, phát triển bền vững trong cân bằng sinh thái đặt ra cấp bách như bây giờ. Chưa bao giờ phát triển xanh, trong hệ sinh thái xanh… được nói đến nhiều như bây giờ. Muốn có đô thị xanh, nông thôn xanh, phải có tài chính xanh… nỗ lực xanh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế.

Ngày càng có nhiều nguy cơ đối với an ninh phi truyền thống. Nó ngày càng hiện hữu, Covid-19 xuất hiện trong 3 năm qua, dẫu dần qua, nhưng tiếp tục cảnh tỉnh loài người.

Bất giác tôi lại nhớ bài hát “Con kênh xanh xanh” của Hoài Nam và Thanh Phương. “Con kênh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi/ Đêm đêm trăng lên theo dòng buồm căng gió xuôi/ Con kênh xanh xanh những mùa sen nở khắp nơi/ Bao câu tơ duyên dạt dào tim ai thắm tươi”, ca từ thật tươi xanh.

Tôi đã từng đầm mình trên dòng sông Nghèn quê hương, uống nước trên những dòng kênh xanh, những ngày đi học. Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy, lại được ngắm nhìn những đoàn thuyền trẩy hội. “Ôi nghìn năm trước ta/ Và một nghìn năm tới/ Sông vẫn thì thầm điềm tĩnh chảy giữa bờ ngô” (Sông Nghèn gặp lại, thơ Lê Thành Nghị)./.

]]>
Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu https://trithucdoanhnhan.net/chieu-chieu-chua-co-tham-reu/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:10 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2638

Leo núi Bổ, đi chùa Bổ, rồi đi chợ Nếnh không xa, bạn hãy trở về sông Cầu để đến với làng gốm Thổ Hà, đến làng Vạn Vân nấu rượu, để thời gian trôi và lãng mạn với chính mình.

Bắc Giang nổi tiếng với ngôi chùa cổ Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, nơi có hồ Khuôn Thần, có tu hú kêu vào mùa vải chín, nơi có thể lãng mạn với rêu phong ở những ngôi chùa cổ kính nước Việt, nơi thật tĩnh lặng của kinh thư Phật pháp… khi bạn ngồi đọc sách trong phòng, nhìn phía ngoài là bờ tường rào bằng đất thó phủ rêu xanh mờ, tịch u để trôi về xưa cũ. Bạn có thể lãng mạn với chính mình khi đi qua dòng sông Cầu.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Đường vào chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Rồi từ sông hãy lên núi Bổ. Núi Bổ gần chùa Bổ Đà, huyền thoại ngôi chùa Bổ Đà ngàn năm trước từng có một vị tiều phu hằng ngày chỉ vác củi và lầm lũi bổ củi để sống. Lão tiều phu này mơ uớc có tiền và nếu có nhiều tiền thì chỉ mong đủ xây một ngôi chùa trên núi. Rồi đức Phật đã cho vị tiều phu này ba mươi hai đồng tiền vàng và từ đó vị tiều phu đã xây được ngôi chùa này. Đến chùa Bổ, bạn sẽ chạm mắt ngay vào cột cây số không – chùa Bổ Đà.

Từ đây, lòng ta có thể vịn vào cổ kính rêu phong mà đi. Một vòm ngói cũ, lá tre khô đã hoang hoải màu thời gian cùng hai bờ tường thẫm rêu. Nào ta cùng vịn vào rêu mà đi thăm chùa chính, rồi leo cầu thang gỗ ọp ẹp lên mấy cây cau lùn hái cau, hái trầu mà ăn. Ba cái bể nước mưa cũng thẫm xanh rêu và nước mưa trong vắt. Lối cũ ta về, đi vào chùa như đi vào một thư viện. Lần giở xem kinh Phật viết bằng chữ Hán trên gỗ thị đã có độ dài xa lắc xa lơ, đã gần ba trăm năm.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Giếng nước chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Cách đây mấy năm, khi còn sống, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mỗi khi viết tiểu thuyết thấy mệt lại thường lên đây, nhìn sách kinh của người xưa, ông hay nghĩ ngợi về nhân vật và liên tưởng đến ngôi chùa Đậu ở mạn Thường Tín, Hà Nội. Chùa Đậu nước ta, ghi dấu hai vị thiền sư Vũ Khắc Trường, Vũ Khắc Minh tọa thiền rồi đi vào cõi niết bàn, điều này ắt chỉ có duy nhất ở Việt Nam mà thôi, thế giới không đâu có. Ông đã trò chuyện với tôi như vậy. Và kinh Phật khắc trên gỗ thị cũng chỉ có ở chùa Bổ Đà, khách đi vãn chùa có thể ngồi đọc sách, đọc kinh kệ trong thư viện Phật giáo.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Một góc nhà nơi chùa Bổ. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Nơi sân sau chùa là vườn tháp cổ, rộng mênh mông. Những lũy tre phủ xanh tầm mắt, khói bay mãi không quang. Có lẽ từ Hà Nội lên chùa Bổ nhìn khói nhạt nhòa sau lũy tre là thích nhất. Không thấy một vệt bê tông nào, ngoài bờ xôi, ruộng mật, đất thịt của ông bà ta xưa, còn có rặng tre xanh. Có một nữ chuyên viên văn hóa ở đại sứ quán Pháp đã tìm lên đây, đã nhảy tung cao người bên lũy tre và hát lên rằng: “Xanh xanh quá là xanh”. Đúng là ở đây không có bê tông hóa, chỉ ngắm nhìn tháp cổ, chùa cổ, chuông cổ, rêu phong sẫm chiều. Rêu phong sẫm chiều trên tường đất thó rất dày và rêu phong chồng lên rêu phong. Nhìn rêu, hồn tôi như chùng xuống sau nhiều năm đi qua gió giông còn dằng dịt vết thương lòng.

Cả một vườn tre kẽo kẹt trong trưa, cả một vườn hoa dại nở lặng thầm trong vườn sân sau chùa không ai nhìn ngắm. Đến sách kinh điển và sách kinh Phật cũng khuất lấp trong mái ngói ta, phủ lá tre già, nào có ai lần giở đọc? Ngoại trừ nhà sư, pháp sư, nhà văn hóa, nghiên cứu, nhà văn lên đây lần giở đọc. Ngồi ở sân chùa, nơi vườn tháp cổ, tôi tự hỏi: “Sau dịch, đã có bao nhiêu tro bụi ngàn thu? Có thể nào tính nổi bao nhiêu ngàn tro bụi mồ côi?”.

Là tôi chợt nhớ một buổi chiều, ghé rạp ở số 191 Bà Triệu, xem phim “Tro tàn rực rỡ”. Cả phòng chiếu chỉ có mỗi một mình tôi xem phim, chiếu được 10 phút sau mới có thêm hai bạn trẻ. Phim thật hay, được trao giải quốc tế, phim sông nước trôi về thân phận, sự cô độc của người miền Tây, vậy mà người soát vé nói rằng: “Ít người xem phim này, vì tuổi trẻ lại thích phim hành động”… Cái còn lại của phim, sau lửa cháy phận người là tro tàn.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Một cảnh dựng phim ở chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Ở Sài Gòn hai năm chống dịch, có bao nhiêu phận thành tro tàn mồ côi? Mới có năm ngoái, dịch bệnh chưa lùi xa, vẫn còn ám ảnh trong giấc ngủ, vẫn còn những người đang điều trị trầm cảm, sao thời gian đã lãng quên nhanh vậy? Mới một năm thôi, nhiều đám cưới bạc tỷ được phơi lên “phây” tung hô, nào ai đoán định sớm được bến bờ của hạnh phúc ngày mai sẽ ra sao? Vì đường đời vốn ngắn lắm và cũng còn dài lắm. Các cụ xưa đã từng dạy: “Không ai cầm tay từ tối đến sáng”. Và nhất là thời 4.0. Người đời sống tốc độ, ăn nhanh, đi nhanh, làm nhanh. Ngay cả vỉa hè Hà Nội, gạch lát đá thi công nhanh hàng trăm tỷ, chỉ chưa đầy năm đã nứt toác, vỡ rạn. Có vỉa hè thay tới vài ba lần vẫn vênh váo và vỡ. Lại thấy đi trên nền đất bờ xôi ruộng mật của ông bà ta xưa mà thấy con người hiền hòa, không xâm lấn đất, không đè nặng đất.

Thích nhất là ở đây đi lễ hội chùa Bổ Đà, còn các bạn trẻ sau lễ hội có thể đi thêm hai cây số nữa để đến chợ Nếnh ăn quà quê, đi picnic leo lên chùa Khám, leo lên ngọn Trúc Lát, ngọn Bàn Cờ Tiên hay thăm làng Thượng Lát Tiên Sơn, rẽ qua Thổ Hà mua gốm. Câu ca xưa hắt lên:

“Trời mưa cho ướt lá khoai

Đố ai lấy được con trai Thổ Hà”.

Hãy thử làm thợ gốm một ngày, ở làng gốm vùng châu thổ sông Hồng khác với gốm Bàu Trúc ở Ninh Thuận ra sao? Và hãy cúi xuống với người chuyên làm gốm tiểu sành. Tiểu sành được nâng niu dưới tay người thợ gốm Thổ Hà. Họ nói: “Đó là nơi đến cõi, nơi ta về với tiểu!”. Ngôi nhà cuối cùng của đời người sau nhiều năm “quăng quật” chỉ về với tiểu sành. Dân nhà quê nghĩ thế. Chứ thời công nghệ, người ở phố chỉ có hai giờ đồng hồ là thành một lọ tro mà thôi.

Đây là vệt làng quê của vùng Bắc Giang, nhưng đi qua nhiều làng văn hóa Kinh Bắc, còn thẫm câu quan họ ngày xuân, còn thấy yếm thắm, trầu xanh mời khách. Còn “người về em dặn người rằng”… níu mãi bước chân. Dặn người hãy một lần ghé thăm chùa Vĩnh Nghiêm, mái cong và vắng lặng. Mấy sư cô đang tụng niệm ở gian chính Tam Bảo. Phía hiên chùa, những bà cụ già làng quê đang chuẩn bị dâng lễ. Nếp quê xưa, lòng thành hương hoa mà vẫn đẫm sự tôn kính.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Góc chùa Vĩnh Nghiêm. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Chùa Vĩnh Nghiêm có dãy hàng cau, quả đã chín không có người hái và sư cô nói cau đợi chín rục mới đi nhân giống để có cây non. Bọn trẻ, học sinh trung học có chiều ghé sân chùa học bài. Ở đó không có còi ô tô, xe máy. Một không gian thiên đường để đọc sách và học tập. Rời ngôi chùa cổ kính, bạn có thể rong ruổi đến với chợ Nếnh trong trưa để ăn bún bánh đúc riêu cua. Thưởng thức quà quê, kẹo bột, uống trà xanh và nước vối, chợ quê trăm phần trăm. Cơm quê có trám xanh, trám đen muối kho thịt. Hương hoa cau và hoa ổi muộn cũng chan vào. Và để thưởng thức sự tĩnh lặng, bạn nên đi vào ngày thường, ngày se lạnh càng vắng.

Xem kinh Phật trong chùa đâu cần nắng rực rỡ, ngắm ngọn Phượng Hoàng cũng đâu cần phải có mây bay. Leo núi Bổ, đi chùa Bổ, rồi đi chợ Nếnh không xa, bạn hãy trở về sông Cầu để đến với làng gốm Thổ Hà, đến làng Vạn Vân nấu rượu, để thời gian trôi và lãng mạn với chính mình./.

]]>
Tàu đã chở mùa xuân ra đảo https://trithucdoanhnhan.net/tau-da-cho-mua-xuan-ra-dao/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:52 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3093

Những con tàu làm nhiệm vụ giữa trùng khơi là sợi dây yêu thương nối đất liền với đảo. Từng gói bánh kẹo, trà mứt vui xuân… những món quà ấm nồng giản dị và quý giá giữa bốn bề sóng lừng, gió mặn.

Thời điểm này, lần lượt những chuyến tàu từ đất liền ra quần đảo Trường Sa và Nhà giàn DK1 đã kéo ba hồi còi tha thiết ra khơi. Ăm ắp trên mỗi chuyến tàu là tình cảm của cả nước hướng về biển đảo. Nàomì gạo Phú Thọ, chè Thái Nguyên, bánh chả Hà Nội, bánh dừa Bình Định… cùng hàng nghìn tấm thư, thiếp chúc mừng năm mới của các em học sinh đã kịp gửi đến bộ đội nơi đảo xa. Dịp Tết, Trường Sa vào mùa biển động. Những món quà mang ý nghĩa tinh thần càng góp phần tiếp thêm niềm tin, hy vọng để người lính và hậu phương của họ thêm vững vàng “vượt sóng”.

Năm 2019, tôi từng có dịp đến thăm một căn hộ chung cư ở đô thị Cam Ranh (Khánh Hòa) trước khi đặt chân lên chuyến tàu công tác Trường Sa. Ở đó, hầu hết gia cảnh của các mái ấm đều giống nhau bởi người đàn ông, trụ cột gia đình đang làm nhiệm vụ canh giữ biển trời Tổ quốc. Nhà không có đàn ông, từ việc lớn như gia đình, con cái, họ mạc đến cái quạt, ti vi bị hỏng, bắc ghế đóng đinh lên tường cũng chỉ một tay phụ nữ.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
TS. Nguyễn Việt Hùng, Giám đốc Bảo tàng Tuổi trẻ Việt Nam tham gia vận chuyển quà. (Ảnh: NVCC)

Một người vợ lính trò chuyện cùng tôi, giọng miền Trung đầy thương khó: “Vất vả vậy nhưng mấy mẹ con chị vui lắm em à! Mẹ con chị chuyển được vào Cam Ranh cách đây mấy tháng, vậy là được gần anh rồi”. Tôi hỏi lại: “Hơn chục năm nay, mỗi năm anh một lần phép, thế bây giờ thì sao?” Giọng chị chợt chùng xuống: “Bây giờ thì… cũng rứa! Có điều, chị và cháu ở đây, ít ra, những lúc mọi người ra thăm đảo rồi mùa thay thu quân, chị được hỏi thăm anh qua người đi, người về”. Nhác thấy nét mặt đầy tâm trạng của tôi, chị rủ rỉ tâm tình, giải thích: “Nếu em có chồng ra đảo, em sẽ thấu cảm giác gần kề dù chẳng gặp được nhau, dù lòng vẫn thổn thức, nấc nghẹn khi nghe tiếng còi tàu chào cảng”.

Những người vợ lính ở khu đô thị này tuổi đời còn rất trẻ. Vì thương con, ngóng chồng mà họ phải xa quê, có người dở dang công việc và hoài bão. Có người vợ lính đã viết những câu thơ: “Anh biết không em sợ tiếng còi tàu/ Bởi nhói lòng khi ta phải xa nhau/ Dẫu đến nay đã bao lần đưa tiễn/ Vậy mà sao nước mắt cứ chực trào”. Cây hoa hồng bằng ốc ngọc lan được cháu bé mang ra khoe với tôi là của bố cháu gửi về. Cháu kể, sau giờ huấn luyện, bố cũng như rất nhiều chú bộ đội trên đảo sẽ ra bờ cát tìm vỏ ốc, dây thép, ni-lông để làm cây hoa ốc gửi về đất liền tặng gia đình, bè bạn. Cây hoa ốc trước mắt tôi thật đặc biệt bởi có 3 khóm. Khóm lớn 38 bông hoa ứng với số tuổi của vợ lính, còn lại 2 khóm nhỏ, số hoa là số tuổi các con.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Cây hoa ốc ở Trường Sa. (Ảnh: NVCC)

Biển đảo bao la mà cũng gần gụi lắm. Cứ nhìn can cà muối từ đất liền chuyển lên tàu là hiểu. Trên vỏ can chỉ đề mỗi “Dũng – TSĐ”, TSĐ là đảo Trường Sa Đông viết tắt, mà ở đó chắc chắn nhiều người trùng tên, thế nhưng bằng cách nào đó, đồ vẫn tới tay người cần nhận. Ăm ắp hàng quà, cũng ăm ắp tâm tư bởi chuyến tàu cuối năm ngoài nhiệm vụ cấp hàng Tết còn thay, thu quân. Những người lính mới và lính đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự thay nhau lên, xuống. Có lẽ, chính bởi lẽ ấy mà đêm trên chuyến tàu cuối năm thường thiên về các cuộc tâm tình. Bộ đội trên tàu thả cước câu cá theo quán tính, dường như chẳng mấy ai cần chờ kết quả. Những câu chuyện cứ tiếp nối câu chuyện, chuyện nhà, chuyện quê. Ban ngày bộ đội giữ ý bởi ai cũng có nhiệm vụ, thế nên càng về khuya, lời cứ tuôn ra như là tự sự. Rồi đến lúc, bỗng chẳng ai nói gì mà tất cả cứ thấy ắp đầy giao cảm. Ở không gian bao la, ta như được hòa nhập với biển trời và biển trời cũng đưa con người xích lại với nhau từ bên trong.

Cả chục ngày lênh đênh trên biển, ghé thăm đảo nổi, đảo chìm, tưởng chừng muối mặn khơi xa đã ngấm sâu đến từng hơi thở ấy thế mà khi tới thềm lục địa phía Nam, lên Nhà giàn, cảm xúc về biển cả lại rộng mở ra những chân trời miên man, thẳm biếc. Bình minh chầm chậm dâng lên, sừng sững trước mắt người ngôi nhà thép sơn vàng bừng sáng hệt đóa hoa hướng dương. Bỗng đâu, có cơn giông bất ngờ kéo đến dù phía xa kia, vẫn khung trời bình minh sóng sánh vàng như mật. Tàu bắt đầu rung lắc, sóng biển đánh thẳng vào chân nhà giàn, trắng cả một vùng.

Cơn giông qua đi rất nhanh, tàu tiến gần Nhà giàn hơn, càng tiến gần càng thấy đóa hoa thép kia vững vàng, sừng sững. Những trụ thép lớn kẻ dọc ngang mặt biển kiêu hãnh, hiên ngang mà không kém phần lãng mạn. Nó dấy lên trong tôi sự bất ngờ, ngỡ ngàng, không hiểu bằng cách nào và trải qua bao thăng trầm để chúng ta có thể xây dựng nên những cột mốc chủ quyền đầy thiêng liêng ấy.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Chuyển quà lên tàu. (Ảnh: NVCC)

Khi đất trời vào xuân, nơi đất liền phố phường tấp nập, người người, nhà nhà rộn rã sum vầy ấm cúng bên mâm cỗ tất niên… thì vẫn có những chuyến tàu cấp hàng lặng lẽ làm nhiệm vụ. Nhiều chuyến tàu khởi hành đúng ngày Ba mươi Tết. Tàu vừa chạy vừa nấu bánh chưng! Rời đất liền đúng dịp Tết, vừa ra khơi vừa đón xuân giữa bốn bề trời biển mênh mông.

Cảm xúc ấy chắc chắn phải da diết, bâng khuâng, tự hào lắm, bởi đúng thời điểm đặc biệt đó, những người lính trên tàu vẫn mang trên vai nhiệm vụ “chở tình yêu của đất liền ra đảo”.

Đại úy Quách Minh Phú, Chính trị viên Tàu 521, Hải đội 413, Vùng 4 Hải quân từng mở lòng kể về những kỷ niệm của anh và đồng đội khi đón xuân giữa trùng khơi. Ngày ấy, con tàu cấp hàng họ đi còn cái tên là “Tàu thanh niên” vì một lẽ rất tình cờ: Hầu hết nhân sự đều chưa lập gia đình. Tuổi trẻ của những chàng trai chưa yêu cứ hăng hái, say mê “chở tình yêu ra đảo”.

Chàng lính trẻ có nhiệm vụ nấu bếp lúc nào cũng luôn miệng: “Khi nào về đất liền em sẽ mua một rổ rau thật to, ăn cho thật đã!”. Tết trên tàu đầy đủ bánh chưng, thịt lợn, phòng đón xuân… bộ đội cũng hát hò, hái hoa dân chủ và xác định vài ngày nữa, nếu sóng to không thể vào đảo được, anh em sẽ cùng nhau hát qua bộ đàm giao lưu cùng lính đảo. Trên ấy, bộ đội còn có thể nhẩm tính, mặc định về các mốc thời gian, còn những chuyến tàu thì không…

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Học sinh nơi đất liền thực hiện nghi thức chào chú bộ đội. (Ảnh: NVCC)

Những người lính từng công tác trên Tàu 521 nhớ lại giây phút đón giao thừa tại đảo Đá Thị. Bộ đội trên tàu ở giữa trùng khơi, tàu và đảo leo lét hai đốm sáng giữa mênh mông biển đêm lộng gió, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ canh giữ biển trời cho quê hương vui vầy. Trên mũi tàu vẫn có những giọt nước mắt rưng rưng của những chàng chiến sĩ trẻ lần đầu đón xuân trên biển; những lời chúc năm mới nghẹn trong tiếng chập chờn của sóng điện thoại vời vợi yêu thương: “Mẹ yên tâm nhé, chúng con khỏe và đón Tết vui lắm mẹ ơi!”.

Bấy giờ, cùng với việc nổi lửa trên bếp, tất cả tàu đang làm nhiệm vụ đều kéo ba hồi còi dài đón chào xuân. Những âm thanh ấy trong phút giao thừa, với những người lính xa nhà vang vọng, thiêng liêng thao thiết. Xuân mới trên biển cả, sau lễ chào cờ trang nghiêm, họ sẽ phóng tầm mắt nhìn biển xanh, tàu cá. Trên nóc mỗi con tàu là cờ đỏ sao vàng tung bay. Như gặp quê hương giữa đất trời lồng lộng, như thấy tình thân ruột thịt hiện hữu giữa trùng khơi.

Kỹ sư Trần Vũ Thành, người chế tạo máy lọc nước biển thành nước ngọt và đã may mắn có hàng chục chuyến công tác đến với quần đảo Trường Sa, Nhà giàn DK1 tâm sự, đến với biển đảo dịp Tết thì ăm ắp nhiều kỷ niệm, nhưng anh nhớ nhất khi vừa bước chân lên tàu đã nhác trông thấy đội bếp đang chuyển từng lọ muối vừng rất lớn, đường kính dễ vài chục centimet còn chiều cao phải nửa mét lên kệ. Trước những cặp mắt ngạc nhiên, bộ đội giải thích: “Trong những chuyến sóng gió dữ dội, nhà bếp cần chuẩn bị chu đáo để nếu ai không ăn uống được gì thì còn có thể lót dạ chút cơm trắng với muối vừng, các đồng chí cứ trải nghiệm đi, rồi sẽ thấm…”.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Khoảnh khắc đẹp trong một triển lãm ảnh về Trường Sa. Ảnh: NVCC

Sau lễ tiễn đoàn công tác được tổ chức trang nghiêm, tàu bắt đầu rời cảng. Từng đợt sóng vây bủa dồn dập theo cấp độ tăng dần, trên ca-bin, sóng đánh mờ mịt cửa kính, các thủy thủ phải dùng gạt nước liên tục. Ai nấy đều choáng váng, cảm nhận được cơn say sóng nên vừa nãy còn phơi phới ngắm biển, chụp ảnh trên boong tàu giờ đã nhanh chóng trở về phòng.

Loa phát thanh nội bộ thông báo: “Tàu đang đi ngang sóng, tổ bếp chằng buộc vật dụng kỹ càng”. Bỗng có tiếng loảng xoảng rất lớn, âm vang đến cả tầng trên, tầng hầm… loa phát thanh tiếp tục vang lên, báo tin bữa tối sẽ chậm một tiếng so với dự định. Dường như ai cũng hiểu điều gì đã xảy ra. Tàu chỉ có bốn thành viên tổ bếp nấu ăn cho gần 100 đại biểu, công việc ấy thật chẳng dễ dàng, nhất là giữa mùa biển động. Anh không thể quên kỷ niệm đêm 31/12/2019, toàn tàu tổ chức đón giao thừa trên vùng biển Tư Chính. Có cành đào, cành mai bằng giấy, đèn nhấp nháy đủ mầu, hoa quả trà mứt từ các vùng miền. Trưởng đoàn công tác chúc mừng năm mới, lì xì các thành viên. Mỗi người, một tay giữ đĩa bánh kẹo trên bàn, tay kia vịn cho chắc, vừa cười vừa chống chọi cơn say. Trong chính khoảnh khắc ấy, trong mỗi người đều dấy lên niềm khát khao được trải nghiệm một đời sống như những người lính trên tàu, họ đầy vững vàng, mạnh mẽ.

Trong chuyến đi này, gần cuối hành trình, tất cả các đại biểu đều chứng kiến một tình huống khó quên. Đồng chí Nguyễn Văn Nhật, chỉ huy phó Nhà giàn DK1/12 đang có mặt trên tàu sau chuyến về phép thăm vợ sinh con. Anh nhận nhiệm vụ rời tàu, trở về nhà giàn bằng phương án bơi. Khi anh bước ra hành lang tàu, mọi người mới ngỡ ngàng biết người lính ấy còn có anh trai chính là đồng chí Đức, thuyền phó. Hai anh em ruột chung chuyến tàu nhưng ai cũng chất trên vai nhiệm vụ, tình cảm ruột thịt được thể hiện tiết chế lắm. Buổi ấy, họ mới chuyện trò với nhau lâu hơn chút. Đức căn dặn em mấy câu bằng giọng miền Trung ấm áp rồi chạy vội vào phòng lấy đôi găng tay mới tinh đưa cho Nhật.

Sau hiệu lệnh của thủ trưởng đoàn, Nguyễn Văn Nhật tự tin và mạnh mẽ lao xuống dòng nước. Mặt biển thẫm lại, sóng cồn cào dữ dội, niềm tin và sức mạnh con người gửi trọn vào một sợi dây nối tàu với Nhà giàn mà người chiến sĩ đang bám chặt, cố sức nhoài về phía trước. Cách đó ít phút, những bao hàng vừa ném xuống biển đã bị kéo đi cả trăm mét. Sợi dây người lính bám chặt để trở về “nhà” cứ neo mãi trong lòng người. Đó như sợi dây nối những mùa xuân. Giờ khắc anh từ lòng biển sũng ướt bước lên Nhà giàn như một bức tượng đồng đẹp đẽ và xung quanh như tỏa ánh hào quang, như có muôn vàn đóa sen thơm bung cánh. Người của biển lại về với biển. Trông anh lừng lững, oai dũng giữa biển xanh và ánh sáng mặt trời. Mọi người vào ánh mắt đồng chí Đức, anh trai Nhật, thấy ngời lên niềm tin cậy, hân hoan đến nghẹn ngào.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Một tấm thiếp của học sinh nơi đất liền chúc Tết bộ đội nơi đảo xa. (Ảnh: NVCC)

Bộ đội giờ có điện thoại kết nối mạng nhưng thời điểm Tết, nhiều tổ chức vẫn phát động phong trào cánh thư gửi đảo xa để lứa bộ đội đầu tiên ra thay quân đã nhận được ngay thư rồi. Xưa thư từ hiếm, nhiều người đọc chung một lá thư, bây giờ có khi một người nhận đến cả chục lá thư. Ấy vậy mà họ vẫn đọc chung. Chính trị viên của đảo là người tiếp nhận và chia thư về từng phân đội, khuyến khích anh em biên thư đáp lại tình cảm đất liền: “Em đã thấy một trời hoa nắng/ Ngay khi vừa nhắm mắt nghĩ về anh/ Ngày xa cách ánh nhìn như biển rộng/ Nhớ biên thư cho nỗi nhớ âm thầm”.

Những con tàu làm nhiệm vụ giữa trùng khơi là sợi dây yêu thương nối đất liền với đảo. Từng gói bánh kẹo, trà mứt vui xuân… những món quà ấm nồng giản dị và quý giá giữa bốn bề sóng lừng, gió mặn. Hương vị vùng miền mở ra xiết bao cảm xúc. Có những con tàu, đảo xa có Tết, và điều đặc biệt nhất đó là: Tết ấm nồng hình bóng quê hương./.

]]>
Đường sáng mùa xuân https://trithucdoanhnhan.net/duong-sang-mua-xuan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3312

Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc.

Mùa xuân của đất nước gắn liền với một dấu mốc quan trọng đó chính là ngày thành lập Đảng (3/2/1930) mà một nhạc sỹ đã ví “Đảng đã cho ta cả một mùa xuân”. Mùa xuân về hoa đào đỏ thắm hoa mai vàng tươi, hai màu hoa tượng trưng cho sắc màu tết cổ truyền dân tộc. Và 2 màu đỏ và vàng cũng chính là màu cờ đỏ, sao vàng của lá cờ tổ quốc. Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Đó cũng chính là con đường sáng mùa xuân phát huy sức mạnh tiềm tàng của cả 4.000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Rực rỡ nhất , tươi sang nhất và hào hùng nhất là thời đại Hồ Chí Minh đã kết tinh những tinh hoa tốt đẹp, bồi đắp thêm và phát huy cao độ bền vững làm bệ phóng cho một tương lai huy hoàng của đất nước

Sinh thời cứ mỗi mùa xuân đến Bác Hồ kính yêu lại có thơ chúc tết quân và dân cả nước. Mỗi áng thơ xuân đều có tính dự báo với tầm nhìn chiến lược sâu sắc mang một ý nghĩa lớn lao. Cách đây 60 năm (Năm Quý Mão 1963) lúc cả nước ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống  Mỹ ác liệt, lời thơ chúc tết của Bác ngắn gọn nhưng toát lên một khí thế mới: “Mừng năm mới – Cố gắng mới – Tiến Bộ mới – Chúc Quý Mão là năm nhiều thắng lợi…”. Ba chữ “mới” liên tục như một điệp khúc reo vang niềm lạc quan với thế chủ động và tự tin biết bao. 

Đường sáng mùa xuân
Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Ảnh: Internet

Năm nay, 2023 tinh thần ấy, dự cảm ấy của Bác Hồ kính yêu dù người đã đi xa vẫn còn vẹn nguyên. Mùa xuân biểu tượng cho một vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ, dạt dào sức sống mới không chỉ thiên nhiên rạo rực mà cả lòng người hân hoan, cây cối đâm chồi nảy lộc, lòng người phấn khởi, dựng xây đất nước, bảo vệ tổ quốc vững chắc, mang lại những giá trị mới khơi dậy ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.

Điểm lại các hoạt động chính trị xã hội trong năm 2022 có thể nhận thấy cụm từ “Khơi dậy khát vọng phát triển” được nhắc đến rất nhiều trong các văn kiện, nghị quyết. Chủ đề đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước. Phải khẳng định rằng trong bối cảnh hiện nay như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” thì đây là khát vọng chính đáng của cả dân tộc ta khi hai tiếng Việt Nam vang lên trên các diễn đàn quốc tế với bao niềm tin cậy và có đủ cơ sở tin cậy hợp tác phát triển. Khát vọng có nghĩa là mong muốn làm được, đạt được những điều lớn lao tốt đẹp cho bản thân, cho cộng đồng, rộng hơn là cho cả quê hương đất nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của mình, Hồ Chí Minh luôn khát vọng đất nước phồn vinh dân tộc hạnh phúc. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ luôn mang một khát vọng lớn lao: “Tôi chỉ có một ham muối, ham muối tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho đến lúc trước khi đi xa, Di chúc của Người cũng để lại một khát vọng tột bậc đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới”. 

Năm 2022 là một năm quan trọng, năm thứ 2 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, năm khẳng định những nổ lực vươn lên của đất nước và dân tộc ta sau những khó khăn thách thức vừa đi qua đại dịch Covid-19, năm thể hiện sức mạnh nội sinh to lớn của đất nước của từng người dân đất Việt, năm mà có sức mạnh tiềm tàng “mãnh hổ” (năm Nhâm Dần) sức mạnh đó là sự tổng hợp nhiều yếu tố trong đó có mạch nguồn văn hóa của dân tộc. Văn hóa gắn liền với hưởng thụ và hạnh phúc của nhân dân. Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hóa dân tộc được kế thừa bảo tồn và phát triển xây dựng con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Con người Việt Nam mang trong mình bản sắc văn hóa Việt Nam như nhà thơ Huy Cận đã tạc tượng đài ngợi ca:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà”.

Con người Việt Nam trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, các thế lực phong kiến Trung Hoa luôn tìm cách Hán hóa dân tộc Việt Nam. Song với sức mạnh của niềm tin và nòi giống “con Rồng, cháu Tiên” cộng đồng cư dân Việt đã kiên trì bền vững đấu tranh để giữ lấy “hồn quốc”. Đó là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam – Triệu Thị Trinh với câu nói đầy hào khí: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ…” như là một minh chứng cho tinh thần bất khuất và khát vọng độc lập dân tộc.  

Dưới thời Lê, Lê Lợi và Nguyễn Trãi được quân dân một lòng tin tưởng đồng lòng đi theo bởi tinh thần “Việc nhân nghĩa cốt ở  yên dân” và ý chí kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (Vua Quang Trung) phất cờ khởi nghĩa với khí thế quyết tâm: “Đánh cho để dài tóc – Đánh cho để đen răng” giữ lấy mạch nguồn hồn cốt khí phách ngàn đời truyền thống, tập quán, tập tục dân tộc.

Đường sáng mùa xuân
Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Ảnh: Internet

Và sau này đến thời đại Hồ Chí Minh, Bác Hồ kính yêu đã kế thừa và đúc kết phát huy cao độ ý chí tự lực: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta” và “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tinh thần khát vọng ấy càng được bồi đắp, càng được phát triển, càng được tôn vinh, càng được khơi dậy không chỉ trong mạch nguồn văn hóa truyền thống mà kể cả trong cả lĩnh vực xây dựng kinh tế, xã hội bảo vệ trọn vẹn chủ quyền tổ quốc thân yêu của chúng ta. Khát vọng dân tộc có một vai trò rất quan trọng, nó là động lực trọng tâm tạo nên sức mạnh vô song. Khát vọng dân tộc nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối và chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động cho toàn bộ quá trình phát triển. Khát vọng dân tộc thể hiện nhu cầu ước vọng của nhân dân trong suốt chiều dài và tiến trình lịch sử của đất nước.  

Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Tiềm năng của mùa xuân là trữ lượng tiềm ẩn, qua một mùa đông giá buốt bao sức sống, sự sống âm thầm tích nhụy, hút nhựa của phù sa đất đai làng mạc, phù sa của khí trời mát mẻ, thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Những trữ lượng ấy đã đâm chồi nảy lộc thiết tha, đã bừng sáng nhạy bén rạng rỡ, đã vươn thẳng, vươn cao lan tỏa một sức sống kỳ diệu, cộng hưởng với lòng người phơi phới. Đó là mối giao cảm, đồng cảm, mối liên kết của tình bao dung nhân ái.

Đường sáng mùa xuân
Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Ảnh: Internet

Có thể nói trong những lúc khó khăn nhất đứng trước bao thử thách cam go nhất thì tình nghĩa đồng bào càng thắm thiết biết bao. Nhất là khi trải qua đại dịch Covid-19, trải qua bao cơn bão lũ lụt của thiên nhiên tràn vào dải đất thân yêu đất nước thì “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Có lẽ cái chữ “thương” tụ hội, sẻ chia, cảm thông, từ bầu sữa ca dao ngọt ngào: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” nuôi lớn những tâm hồn cao cả để rèn những ý chí kiên cường. Cội nguồn truyền thống sâu xa ấy chính là điểm tựa là bệ phóng cho khối đoàn kết dân tộc có một hệ giá trị mới, một năng lượng mới, một tinh thần mới đó là: Khát vọng phát triển!

Đường sáng mùa xuân bắt đầu từ một “Nông thôn mới”. Cũng lũy tre, ngõ xóm ấy, cũng lối chợ họp sớm hôm, cũng láng giềng khi “tối lửa tắt đèn” nhưng gương mặt nông thôn đã bừng lên đã sáng lên đã chan hoà đã kích hoạt bao cảm hứng về một nội lực mới trong lòng mỗi người, trong mỗi xóm thôn với “điện, đường, trường, trạm” không chỉ là mô hình đồng nhất phát triển mà còn là nguyện vọng khát khao hiện thực đổi mới trong cách thức kiến trúc lại một đời sống mới, chất lượng sống mới cao hơn, toàn diện hơn. Con đường sáng mùa xuân đã được mở ra những đại lộ không chỉ là đường cao tốc giao thông mà còn có những đại lộ mới, cao tốc mới sức phát triển mới trong tầm nhìn định hướng của mỗi người của mỗi nhà, mỗi xóm thôn làng bản nâng lên một tầm cao mới. Khát vọng phát triển lan rộng và tỏa sáng đến với những vùng cao miền núi xa xôi hẻo lánh. Những ngày hội truyền thống mang bản sắc dân tộc, ngày hội “tết độc lập” với bao sắc màu sắc áo thổ cẩm đan cài ríu rít tưng bừng trong những điệu múa sạp và gần đây điệu múa xòe Thái đã được tổ chức văn hóa thế giới Unesco vinh danh. Có một biên giới vững chắc, có một biên cương vững chãi không chỉ ở cương vực đất đai sông núi tổ quốc mà ở ngay trong thành trì của lòng người, tình người. Đó chính là những cột mốc bền bỉ và bền vững.

Đường sáng mùa xuân tỏa đến biên cương, hải đảo. Những dấu chân bấm vào rêu đá núi tai mèo, đèo sương phủ. Chặng đường tuần tra biên giới của các anh chập chùng bao hiểm nguy rình rập. Nhưng màu áo xanh biên phòng vẫn bền bỉ màu  rừng đậm đà thân thuộc. Những chấm lửa heo hút gió đến với các bản làng đánh thức con chữ cho bữa cơm thêm thịt, cho tấm chăn thêm bông. Tôi gặp nơi biên cương những chóp núi mang hình cánh buồm lại nhớ đến những người lính ngoài đảo khơi xa xôi  với “Những nhà giàn như tán cây bằng thép – Bốn mùa tươi không thể héo lá cờ” .

Đường sáng mùa xuân
 Vững vàng nơi đầu sóng. Ảnh: Internet

Sáng xuân này khi trên biên giới hoa mơ, hoa mận nở trắng xóa tinh khiết và trong trẻo thì ở ngoài đảo khơi xa sóng gió biển khơi, những trái bàng vuông đã bắt đầu lặng lẽ tụ quả bên chiến hào của các chiến sỹ canh phòng giữ đảo. Thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành, thiên nhiên là hình bóng đất mẹ thân thương, thiên nhiên là một phần hình hài đất nước thật gần gũi  biết bao. Thiên nhiên đã khơi dậy mối đồng cảm gắn bó với đất đai, con người khi cây cối ra hoa kết trái phát triển theo quy luật  tự nhiên. Đó cũng chính là động lực để thôi thúc phát huy cao độ sức mạnh tiềm ẩn của con người bằng ý chí nghị lực, bằng tri thức khoa học sáng tạo, bằng tình cảm chan chứa thiết tha với tình làng nghĩa nước. Các công trường xưởng máy reo vang nhịp điệu hăng say lao động với ánh lửa hàn chấp chới như sao sa, như chùm pháo hoa ngày hội. Các đường băng mở rộng cho những cánh bay đến với mọi miền tổ quốc và bạn bè quốc tế. Đó chính là nhịp điệu của mùa xuân, sức xuân, sức sống mới. Và trong những giây phút thiêng liêng chuẩn bị đón mừng năm mới ta như được nghe vọng lại lời chúc tết của Bác Hồ kính yêu bởi tiếng Người là tiếng vọng của non sông: “Bác Hồ gọi ấy là mùa xuân đến”. 

]]>
Visa nào cho bún thang ngày Tết https://trithucdoanhnhan.net/visa-nao-cho-bun-thang-ngay-tet/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3318

Tết Việt là nỗi khát khao nhất của mỗi người muốn trở về. Về nhà thôi! Tết năm nay, niềm vui lớn là được tự do, nói cười và kể chuyện, được gần người thân và cái chính là được về nhà.

Tết năm ngoái, chị Nguyên Trần còn ngơ ngẩn không về Việt Nam được vì thất lạc giấy tờ, rồi khủng hoảng dịch Covid-19 và mắc trầm cảm nhẹ. Năm nay, chị xin lại hộ chiếu, xin visa để được về với quê nhà, để đi trong mưa phùn gió bấc; rồi đi lại vào cái ngõ nhỏ sập xệ, tới chung cư cũ rích ở phía sau nhà máy rượu Hà Nội, đó là chung cư của nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo xưa lắm rồi. Nhà máy Trần Hưng Đạo đã xóa đi, mọc lên một tòa nhà hoành tráng; một thế hệ sinh từ những năm hai ngàn trở đi không biết nơi đây từng là nhà máy Diêm Hà Nội nổi tiếng một thời, gắn bó thân thiết với nhiều kỷ niệm của bao người.

Rồi cuối cùng, chị cũng có visa về nhà trước Tết, cùng cô em dâu đi chợ mua gà quê, mua đầu tôm khô, mua miếng vải màn thưa khâu thành cái túi luộc đầu tôm làm nước dùng cho bún thang pha với nước luộc gà. Bún thang làm kỳ công mà mẹ dạy Nguyên Trần phải lụi hụi làm từ chiều 29 Tết. Riêng 30 làm cỗ Tết, mâm cỗ cổ truyền với 10 món, gồm 6 đĩa 4 bát. Cỗ truyền thống xưa ngoài 10 món, còn có xôi vò chè đường ăn tráng miệng. Bây giờ đơn giản hơn, người ta chỉ làm một bát măng khô hầm móng giò, bát bóng nấu tôm khô, nấm với xúp lơ xanh cũng đủ ngũ hành. Giờ đây dân tình cũng bỏ bớt món khoai tây nấu cari và bát miến nấu lòng gà chỉ để mâm ăn, chứ không dâng miến thờ cúng tổ tiên bởi quan niệm sẽ “rối ruột” các cụ.

Visa nào cho bún thang ngày Tết
Visa nào cho bún thang ngày Tết

Bún thang Hà Nội (Ảnh: HVH)

Tết nhất hình như chỉ có ngày 30 và mùng 1, sang đến mùng 2, mẹ chị Nguyên Trần bảo “thế là xong Tết, con đi làm bún thang ăn cho mát ruột”. Mùng 2 Tết đã có chợ rồi, rau xanh chỉ có đắt hơn nhưng rau cỏ, bún tươi cũng ngon hơn. Rồi làm món ruốc tôm khô cho bún thang, trứng tráng thái mỏng nhỏ như sợi tóc, cùng giò và thịt gà, nấm hương. Trứng muối luộc cắt lát nửa non bày cho đẹp mắt. Những công đoạn làm món bún thang tùy lúc nào nhàn thì làm trước, như làm ruốc tôm khô chẳng hạn, cũng như việc muối trứng vịt cũng chuẩn bị trước cả tháng trời. Ngày mùng 1, gia đình sum họp ăn Tết cổ truyền. Sang mùng 2, con cháu chung tay làm bún thang cho vui cửa vui nhà. Nguyên Trần chỉ dành việc thái trứng tráng và giò lụa theo cách thái chỉ, riêng thịt gà thì xé phay nhỏ.

Chao ơi, những ngày này năm ngoái cứ sôi lên nỗi nhớ, nhớ Tết bún thang; rồi chầm chậm cũng có bún thang, việc lo liệu visa cũng vì bún thang. Đủ thứ nông nỗi nhớ Tết Việt. Nhớ cái ngọn đèn tiết kiệm điện, tù mù ở hành lang chung cư cũ, nhớ khói quạt bếp mùn cưa năm nào, hay nhớ mùi dầu hỏa xộc lên khi tắt bếp. Ở Bắc Âu, đầy tuyết trắng xóa, trắng xóa cả tháng trời mà chỉ ngồi nhớ vơ vẩn cái bếp mùn cưa và tiếng ho sặc sụa của bà hàng xóm tên Tuất. Bà chỉ nghe tiếng bước chân mà nhận ra từng đứa trẻ nhà bên cạnh, dù ở trong nhà một mình. Bà Tuất đã mất rồi, nhưng món chả rươi băm với vỏ quýt hôi của vùng trời Bắc Cạn thì ngon và thơm còn đến giờ. Nhớ bà Tuất dành cả đĩa chả rươi cho Nguyên Trần ăn trước khi chia tay sang Na Uy cùng chồng. Người đã khuất mà vị còn trong cảm giác xót xa, vì nhớ tình láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau.

Trong hương khói ấm nồng ngày Tết, món bún thang vẫn dậy mùi nếp nhà truyền thống, gọn gàng, sạch và đạm bạc. Nhà chả có đồ đạc nên thoáng rộng, càng rộng. Bây giờ tính cô em dâu thì thích nhiều đồ cứ bầy chất ngất chật nhà, nhưng chồng nó bảo: “Không lay nổi hòn đá tảng mua sắm đâu”, thôi thì trời chả chịu đất thì đất chịu trời vậy. Tuy vậy, Nguyên Trần cũng chấp nhận sự thích mua sắm của em, nhà cửa vẫn đâu ra đấy, còn có nguyên một phòng cho cô ấy bầy bừa, không ảnh hưởng đến ai. Thế là ổn thỏa.

Bữa bún thang mùng 2 Tết không có mắm tôm, ăn kiêng dè đầu năm, còn hôm khác Nguyên Trần sẽ ăn bún thang có mắm tôm cho đủ vị nỗi nhớ nhà. Làm bún thang mà cậu em giai phải ngồi kèm để xé phay thịt gà; vợ nó thái lá chanh, nhỏ hơn sợi tóc; rồi bóc trứng muối, trò chuyện ríu rít suốt lúc làm. Sự quây quần, làm ấm lên không gian bếp Việt.

Visa nào cho bún thang ngày Tết
Chao ơi, những ngày này năm ngoái cứ sôi lên nỗi nhớ, nhớ Tết bún thang; việc lo liệu visa cũng vì bún thang, rồi chầm chậm cũng có bún thang… (Ảnh: IT)

Nhớ lại ngày bé, em con phải quạt bếp mùn cưa, quạt nan cho khói um lên mà bà Tuất suốt ngày kêu than hơi khói hắt vào nhà. Chiếc cầu thang của thời bao cấp thiếu ánh sáng, vậy mà chị sang Na Uy chỉ ngồi nhớ cái cầu thang tồi tàn sứt sẹo bậc xi măng mà chẳng có ai vá víu. Hồi đó nhà ai cũng nghèo. Xếp hàng mua được vài lạng thịt, mua con gà cũng giấu giấu diếm diếm kẻo hàng xóm để ý kêu ăn tiêu hoang, tiền ở đâu mà gà qué lắm thế?

Một thời, miếng ngon còn là giấc mơ, là ao ước, chỉ mơ ăn cơm gạo trắng thôi đã là sung sướng lắm. Thế mà giờ đây, cơm tám Điện Biên, Lào Cai, Sín Chải, rồi mọi thứ ngon nhất ở núi cao đổ về Hà Nội, chả thiếu thứ gì, khiến giấc mơ thèm ăn không còn. Cũng là một thứ mất đi cảm giác ngon, cũng là mất đi một cảm giác thưởng thức nghệ thuật ẩm thực. Bao nhiêu người Việt vẫn giữ món ngon ở nơi xa xứ, vì nó ngon không giống món Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu, và vị của nó cũng khác vị của xứ tuyết ít nắng. Chả thế mà khách Âu, cứ bỏ tiền ra “mua nắng” ở cửa biển Phú Quốc, Cát Dứa, Cát Cò ở vùng Kiên Giang, Hải Phòng, rồi Cô Tô Quảng Ninh. Họ mua vé, chi tiền đô la chỉ để nằm nhìn nắng. Ở Việt Nam đây, nắng cho trái dứa, chuối thơm thì lại không quý hoa quả như ở nước ngoài. Ngay cả nhãn, thanh long, vải thiều khi xuất khẩu sang Nhật, Mỹ với giá cả đắt cắt cổ, mà có thấy mấy người Việt quý hóa hương hoa quả của nước mình? 

Trong lúc gia đình ở bên nhau, Nguyên Trần kể về nỗi thèm nước mắm ngon ở Việt Nam. Bên kia cũng có, nhưng đào đâu ra nước mắm rút nõ Thanh Hóa hay nước mắm ông già ở Phú Quốc, có nằm mơ cũng không có nhé. Rồi hay như củ gừng tím ở Sơn La cũng vậy, cay nhức răng thơm nhức mũi. Nguyên Trần là dân ngụ cư ở Bắc Âu, ăn theo chồng mà chồng chị không muốn về nước, còn vợ thì muốn lắm mà không bỏ được vì phận gái theo chồng. Sáu tháng mùa đông đầy tuyết âm âm u u, thèm một tiếng thở dài của mẹ hỏi thăm bao giờ con về, thèm bát bún riêu cua đồng, bún thang 19 năm mới có cơ hội bay về để ăn.

Có khi còn thèm cả tiếng Việt ở nơi ít người Việt. Chồng Nguyên Trần ít nói, đi làm về là đọc sách nghiên cứu nên không mấy khi trò chuyện cùng vợ, Nguyên Trần toàn nói chuyện với cây hoa trồng trước cửa. Đôi khi nghĩ giá như được sống ở Đan Mạch, ở đó có “thư viện người”, đến đó người được gặp người để hàn huyên cho hết nỗi buồn. Người của “thư viện người” sẽ ngồi im lắng nghe ta hết thảy câu chuyện mà ta cần để giải tỏa căng thẳng. Người nói sẽ dễ chịu hơn, không vấp bệnh trầm cảm, không stress. “Thư viện người” ấy thật là cứu tinh cho bao người cô đơn, lạc lõng, bao nhiêu tâm trạng u uẩn chưa được nói ra tiếng người và được người nghe thấu hiểu. Giống như sum vầy của Tết Việt, nó nâng đỡ bao nhiêu sự mất mát, được sẻ chia, vỗ về, an ủi.

Rồi chưa hết Tết, cô em dâu đã đi chợ mua cho chị chồng những thứ mà chị thích hoặc bên xứ người không có; là sự quan tâm, muốn chìa tay chia sẻ, muốn bao bọc những năm tháng cách xa mà chị không ở gần. Nguyên Trần thấy hết và nhìn ra cách chạy vạy để làm visa về quê ăn Tết của nhiều người Việt đều có một mong mỏi đoàn tụ. Rồi chị hẹn cô em dâu, đi mua những thứ để về quê nội chùa Thầy, để về thăm họ hàng, ngoảnh lại tuổi thơ ở làng những ngày sơ tán. Biết đâu đó rồi Nguyên Trần khó có thể trở về, vì chẳng ai nói trước được điều gì, khi bay trên trời mười mấy giờ bay, rồi những vướng víu khác ở xứ người đi lại xa lắc xa lơ.

Tết Việt là nỗi khát khao nhất của mỗi người muốn trở về. Về nhà thôi! Cũng may là dịp trở về này không phải đi cách ly, không còn lo bà con xa lánh vì đủ lý do có lý và vô lý khác. Tết năm này, niềm vui lớn là được tự do, không phải về quê nhà bị dân làng lảng tránh, xua đuổi. Tổn thương cũng hay để lại nhiều vết sẹo khó lành trong lòng người khi gặp thời gian đại dịch. Tết năm nay vui hơn hẳn năm trước, được tự do nói cười và kể chuyện, được gần người thân và cái chính là được về nhà. Về nhà – lý do chỉ đơn giản ấy, dù bao cung đường cách xa cách ly, nay còn được về bên nhau sau đại dịch, cũng đủ để mỗi gia đình được đoàn tụ, hân hoan đón năm mới, xuân sang./.

]]>
Còn quê hương thì làm phong tục https://trithucdoanhnhan.net/con-que-huong-thi-lam-phong-tuc/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3323

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự.

Tôi là người Kinh, nhưng anh em bạn bè gốc gác các dân tộc thiểu số mạn Tây Bắc, Việt Bắc. Thời khó khăn, sau khi nghỉ Tết, có lần tôi và Hoàng Đình Thắng (người Tày) ra Bến Nứa xếp hàng lấy vé xe ngược Tuyên Quang (hồi ấy còn là Hà Tuyên). Cũng xin nói thêm, trên đất cũ của Bến Nứa nay là một bến xe bus ngoài trời của vận tải công cộng Hà Nội, mạn gần cầu Long Biên.

Mua vé đã khó, xe chật như nêm, hành trình dọc quốc lộ 2 thật gian nan. Như bây giờ lên Tuyên chắc chỉ 1 tiếng rưỡi gì đó. Ngày đó “đi dọc câu hò”. Khá bền bỉ, né tránh thanh niên “đen đỏ”, chơi xóc dĩa trên xe, mới về đến Sơn Dương quê bạn.

Mồng 3 Tết, bạn rủ đi chơi trò “Ném còn”. Hồi đó, tôi chỉ nghĩ là trò chơi dân gian của cộng đồng dân tộc Tày. Hóa ra, không gian văn hóa của các dân tộc Thái, Tày, Mường, Nùng đều có ném còn. Nó có nguồn gốc từ rất lâu đời.

Tuyên Quang cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc, ra Tết nhiều đợt gió mùa lạnh sâu. Sau khi ăn sáng, chè cháo mãi, hai anh em quây quần bên bếp củi đặt giữa nhà cùng mẹ Hoàng Đình Thắng và mấy đứa em. Bà có tên con gái hẳn hoi, nhưng khi Hoàng Đình Thắng sinh ra thì bà “mất tên”. Người Tày cũng giống như nhiều vùng quê nông thôn miền Trung, sau khi đứa con đầu lòng ra đời thì tên con trở thành tên bố mẹ. 

Đứa con ra đời đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời sống vợ chồng, bên cạnh niềm hạnh phúc đó còn là trách nhiệm lớn lao, nuôi dạy con cái nên người. Vì vậy người Tày thường lấy tên con đầu để gọi tên cho cha mẹ, cách gọi thân mật đó là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.

Ngồi một cữ than nồng Hoàng Đình Thắng xin phép mế đưa tôi ra bãi đất, nơi bà con xã Hồng Lạc tổ chức vui xuân, ném còn. Khi hai anh em ra thì đã nô nức. Tôi như lạc vào giữa vườn hoa sắc tộc. Công nhận y phục của phụ nữ các dân tộc thật bản sắc, mê dụ. Không như người Kinh, phụ nữ ngoài y phục áo dài chung cho cả cộng đồng người Việt thì không còn gì, tất cả là “đồ Tây”.

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Ảnh: Internet

Hoàng Đình Thắng kể rằng: “Trong quan niệm của người Tày, quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Chính vì vậy, quả còn bao giờ cũng làm bằng vải màu đỏ, màu đen, màu xanh và màu trắng”. 

Phụ nữ các dân tộc Tây Bắc, thường làm quả còn bằng những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Dây còn cũng được khâu bằng vải, dài độ nửa sải tay, một đầu đính vào điểm tâm giao của hình vuông quả còn. Tua còn được cắt bằng vải vụn, đủ màu sắc, sau đó đính vào 4 góc quả còn và đính so le điểm trên dây còn, tạo thành biểu tượng như hình con rồng bay. Tiếng dân tộc Tày gọi là “con cuống”, mang niềm tin gửi gắm nơi con rồng đem lại sự phồn thịnh, hạnh phúc. Thường quả còn chỉ có khoảng 4 – 8 múi, nhưng với người khéo tay, họ có thể may quả còn với 12 múi gồm 12 màu. Mỗi quả còn, trong ngày hội khi tung lên mang theo niềm vui và may mắn cho người chơi.

Và rồi Hoàng Đình Thắng, đưa tôi vào trò chơi. Anh bảo: “Ta chơi với hội theo tục tỏ tình, giao duyên”. Tôi và Hoàng Đình Thắng đứng một bên, hai bạn nữ đứng một bên. “Nào ném”, anh ấn vòa tay tôi quả còn và nhắc. Trời à, đây là cách tung còn “đại trà”. Tất nhiên hai anh em chỉ tung một lúc, trả còn lại cho trái gái sở tại và đứng xem. “Bạn biết không, tung còn của giữa nam và nữ cũng là cách tìm bạn gái đấy. Đôi nào phải lòng nhau tự khắc ném cho nhau. Thông qua hội tung còn nhiều đôi trở thành chồng, thành vợ của nhau”. 

Với người Mường, cũng y chang người Thái. Hội ném còn là dịp để nam thanh nữ tú gặp nhau, là bà mối để se duyên. Bên nào thua sẽ phải để lại một vật làm tin, thường người thua sẽ là các chàng trai. Sau lễ hội, chàng trai sẽ quay lại nhà cô gái để xin lại vật đã gửi lại làm tin, là cái cớ để hai người gặp gỡ, tìm hiểu tiếp.

Tất nhiên, lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế, trai bản biết hết nhau, anh chị nào thích nhau, tìm hiểu nhau đã từ trước. Ngày xuân chỉ là lúc họ giao lưu, vui xuân cùng bạn bè. 

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn được làm từ những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Ảnh: Internet

Cách thứ hai, được Hoàng Đình Thắng chỉ vào phía sau hai anh em, giải thích, gọi là “tọt con vong” nghĩa là tung còn vòng. Ở giữa sân bãi này, trưởng bản cho chôn một cây tre, cao chừng 10m, đầu trên cao có gắn một cái vòng tròn đường kính khoảng 50 – 70cm theo phương thẳng đứng. Vòng tròn được gắn vải đỏ, xanh… phần trên khâu chắc vào mép, ở dưới thả buông để khi ai đó tung trúng vào trong vòng còn dễ phát hiện ra. Quả còn sẽ được tung lên cao nhằm hướng vòng còn trên đỉnh cột, quả còn vút qua ngọn cột tre, những dây tua ngũ sắc cũng lướt xòe ra với màu sắc rực rỡ trông thật đẹp đẹp mắt.Trò chơi này giành cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, có gia đình hay chưa đều chơi.

– “Tung vài quả, mỏi tay phết?””, tôi nói với Hoàng Đình Thắng.

– “Thì thể thao mà. Có thể thao nào không đòi hỏi sức khỏe và sự khéo léo”, Hoàng Đình Thắng mỉm cười.

Như vậy, ném còn vừa mang tính văn hóa lại vừa mang tính thể thao, rèn luyện sự tinh tế, khéo léo khi tung, khi bắt. Trò chơi cũng là sự kết hợp các động tác toàn thân, vừa sảng khoái tinh thần, vừa được giao lưu, tỏ tình, đoàn kết, vui vẻ. Cả sân bãi, vốn là nơi bọn trẻ trả trâu chăn bò, tiếng trống, chiêng và hò reo dậy lên như sấm. Vui không thể nào nói hết.

Ngoài ý nghĩa tương đồng, với người Tày, trò chơi ném còn mang ý nghĩa cầu mùa. Trước khi khép hội, thầy mo sẽ rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ. 

Sau này được đi đủ mọi “xó xỉnh” của Tây Bắc, được anh bạn khác là Vi Văn Long “xe duyên”, tôi được nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái, Lò Văn Ín ở Điện Biên cho biết: “Ném còn là biểu tượng cho âm dương hòa hợp. Quả còn trong quan niệm của người Thái tượng trưng cho dương, còn vòng tròn dán giấy đỏ trên cây tre tượng trưng cho âm. Người Thái chơi ném còn thể hiện âm – dương hòa hợp và mang ý nghĩa phồn thực. Chính vì thế, những gia đình hiếm muộn con cái thì người phụ nữ rất hào hứng tham gia ném còn để cầu tự”. 

Theo truyền thuyết của người Thái ở Điện Biên thì ngày xưa, nhân năm được mùa, mưa thuận gió hòa, vua Hùng đóng đô ở Phú Thọ đã mời các bộ tộc, bộ lạc về tổ chức lễ hội. Các tộc người như Mường, Kinh, cùng các bộ lạc như Lạc Việt, Nam Việt… về đông đủ dự hội. Chỉ riêng người Thái ở Tây Bắc về có hai người. Vua Hùng buồn rầu bảo rằng, người Thái sống trên núi, ít người, đất rộng, Vua liền ban cho người Thái trò chơi ném còn để con người nhanh chóng sinh sôi, phát triển. Cũng từ đó, trò ném còn được người Thái chơi từ ngày này sang tháng khác, trong các lễ hội của cộng đồng.

Người Thái có một niềm tin chắc nịch, trò chơi Vua Hùng ban cho rất linh thiêng. Kể từ đó, người Thái đã sinh sôi phát triển trở thành tộc người có dân số lớn nhất vùng Tây Bắc. Tức là về mặt tâm linh, ném còn không chỉ là trò chơi dân gian, thể thao cộng đồng, mà còn mang ý nghĩa tốt tươi, nảy nở. Không chỉ thế, còn tung lên mang ý nghĩa tượng trưng cho những buồn đau và mọi việc xấu sẽ được rũ sạch, thay vào đó là sự ấm no, hạnh phúc. Nếu ném trúng vòng tròn cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. 

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự. Quả còn ném thường hướng về đầu nguồn sông, hay suối chính là hướng về các bản làng người Thái.

Còn quê hương thì làm phong tục
Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Ảnh: Internet

Có câu chuyện này, tôi muốn nói thêm, đã từng được dự nhiều bữa cơm cùng với gia đình hai người bạn Hoàng Đình Thắng và Vi Văn Long, tôi cứ suy nghĩ mãi về giao tiếp. Khi Hoàng Đình Thắng hay Vi Văn Long về đến nhà, rặt nói tiếng dân tộc mình. Chỉ khi hai anh hoặc có người trong nhà hỏi han tôi, mới dùng đến “quốc ngữ”. Ý thức giữ bản sắc từ tiếng nói, trang phục của các cộng đồng dân tộc là điều đáng phải suy nghĩ. Điều này, không như người Kinh. Và, tôi nhớ bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”. 

Ngôi nhà ông ở Hà Nội là không gian Tày gần gũi. Phu nhân nhà thơ vừa địu con trên lưng vừa thổi cơm, lẩm nhẩm thơ chồng:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Ông tên thật là Hứa Vĩnh Sước, người Tày ở Trùng Khánh, Cao Bằng./.

]]>
Mùa gọi đồng hành https://trithucdoanhnhan.net/mua-goi-dong-hanh/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3307

Mùa xuân, mùa của Tết và lễ hội, mùa sống mới của vạn vật, lại một mùa nữa trong đời sống thăm thẳm cõi người, rủ gọi chúng ta đi, thúc giục chúng ta lên đường…

Mùa đã gọi lên đường rồi đấy! Gọi ngay từ lúc ta thưởng cho mình những ngày nghỉ để sắm sửa Tết nhất. Trong cái ý ăn Tết, cách nói quen thuộc: Ăn một cái Tết, nghỉ ăn Tết mà các cụ gọi xưa nay ấy, dường như đã bao hàm cả nội dung chơi Tết, vui xuân.

Và đã trở nên một nghi thức đẹp của Tết, vừa Giao thừa là người ta đi hái lộc, xin lộc. Vậy là ngay sau thời khắc chuyển giao của đất trời, của thời tiết, của ý thiên nhiên và lòng người, từ trong không gian còn đêm tối, rất nhiều bước chân đã chọn cho mình một cuộc xuất hành. Để sáng ngày ra, mồng Một Tết quang quẻ, tươi tắn, sau nén nhang thành tâm bên mâm cơm cúng gia tiên và bữa sáng đầu năm quây quần, nhiều cụ, nhiều ông, bà, nhiều gia đình sửa soạn khăn áo phẳng phiu, là lượt ra lễ chùa, lên đình, đền, lên đường đi chúc Tết.

Những lượt đi ngắn, nhỏ đồng hành cùng xuân mới, đã khởi lên như lộc non trổ mầm trong mấy ngày Tết. Để từ lễ hóa vàng cúng tiễn các cụ và những người đã khuất sau quãng thời gian đón năm mới cùng con cháu lại trở về chốn yên nghỉ, từ những cánh đào nhạt dần sắc thắm đã bắt đầu lả tả xuống mặt bàn, trong ta lại mở rộng cánh cửa dẫn ra con đường vươn xa, tâm trí ta nao nức, sẵn sàng cho những chuyến rong ruổi, trải nghiệm giữa vô cùng non nước, con người.

Mùa gọi đồng hành
Không khí hội lễ bừng lên những tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba ảo diệu, huyền linh một không khí giao thoa, cộng cảm của trời, của đất nước và làng mạc. (Ảnh: Tùng Dương)

Đón chúng ta là không khí hội lễ bừng lên những tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba ảo diệu, huyền linh một không khí giao thoa, cộng cảm của trời, của đất nước và làng mạc, của thần và người, cùng sinh linh, cây cỏ. Có một dịp lễ hội của mỗi làng quê, để người dân dù đi xa ở gần, dù công thành danh toại hay giản dị cần lao, là nhà nghệ sĩ, bác giáo sư, ông quan to hay người bán hàng chạy chợ… cũng được ý thức về ơn nghĩa lớn lao của những giá trị thiêng liêng đã hòa trong trăm năm nuôi dưỡng phần tinh thần của cộng đồng quê hương mình. Và ta được đến với những làng quê ấy của bạn hữu. Cũng như, nhiều người con xa quê không chỉ hưởng cái Tết chung cả nước, mà vào dịp lễ hội làng mình, cũng thu xếp trở về, hay nán lại gia đình, cùng với làng với họ “ăn nốt” cái Tết của làng rồi mới lên đường, trở lại nhịp đời thường công danh, sự nghiệp.

Thời buổi người khôn của khó, bóng ma dịch bệnh vẫn còn vất vưởng “ám quẻ” con người ta trong từng thông tin suy giảm của kinh tế, bất ổn trong xã hội, thì thời gian thảnh thơi vui chơi cũng phải gia giảm. Nhiều người đành phải vắng mặt trong dịp “Tết làng”, thậm chí kể cả Tết Nguyên đán, cũng thôi thì nhớ về ông bà, bố mẹ trong giờ tăng ca hay phút vui xuân gọn gàng nơi công xưởng. Những khó khăn mức sống còn dai dẳng, cũng có ảnh hưởng đến sức mua, sức tiêu và sự thụ hưởng như trong những ngày Tết vừa rồi. Nhưng dường như không có gì ngăn được nguồn sinh khí của sự phục hồi cả về kinh tế, vật chất lẫn trong tâm thế mọi người. Để rồi thì “tùy gia phong kiệm”, biết vừa, biết đủ, ai ai đó vẫn cùng có được những cái Tết vui, Tết ấm hợp với hoàn cảnh. Và cả những chuyến đi, những cuộc du xuân, vẫn cần phải có, như một phần đời sống vậy, một cuộc sống không chỉ nước uống, cơm ăn, mà còn phải biết tưới tắm cho tâm hồn bằng những trải nghiệm đó đây. Vì thế mà bảo rằng, no bụng, ấm thân đã rồi hẵng nghĩ đến việc du hý, thì cũng đúng ở cái lẽ phải lo vật chất, dựng nền tảng, đủ đầy mới có thể vươn dần lên đỉnh tháp nhu cầu mà thưởng thức văn nghệ, đi chơi đi lượn này kia, nhưng ngẫm thêm ra thì đời mỗi con người ta, biết thế nào cho đủ, biết bao giờ mới đủ hết? Mà nhu cầu, tham vọng thì khác nhau lắm lắm! Lại ở vào cái bối cảnh mà đời sống biến đổi chớp mắt, hôm nay đã vậy, ngày sau chưa biết thế nào. Cho nên, cũng đừng để tối tăm mặt mũi cắm cúi lo cái ăn cái mặc, rồi một chút ngẩng lên nhìn trời cao, đất rộng, một chuyến rời chân rong ruổi đường xa cũng không có nổi!

Mùa gọi đồng hành
Du khách thập phương nô nức đi lễ Đền Hùng để tri ân công đức Tổ tiên và cầu một năm mới an lành trong năm Quý Mão 2023. (Ảnh: Ngọc Tiến)

Quả là như vậy, nên bao nhiêu người đã hẹn nhau khai xuân, du xuân một chuyến, mở đầu cho một năm làm lụng sao cho hanh thông, rộng mở. Có xởi lởi, thong dong những ngày đầu xuân thì vào năm mới được chảy trôi, thuận lợi. Đấy là cái nghĩ thông thường, phổ biến trong nhiều người. Và những cuộc xuất hành cứ tơi tới, cứ liên tiếp. Như đã thành truyền thống, những dòng người lại trảy hội chùa Hương, hội xuân Yên Tử, hành hương về chùa Bái Đính, du ngoạn thắng cảnh Tràng An, rồi thì đi lễ đền Đức ông ở Cẩm Phả, đi lễ đền Bà chúa kho bên Bắc Ninh, Bắc Giang, tìm lên lòng hồ sông Đà lễ đền Thác bờ, đi Phủ Giày, đền Sòng, lên Bảo Hà, Đồng Mỏ… thăm viếng chốn thờ tự những ông hoàng bà chúa, các cô các cậu…, lên Ba Vì lễ thánh Tản Viên và hành hương về chốn tổ ngưỡng vọng oai linh các vua Hùng, tri nhớ ơn sâu lớp lớp người xưa khởi dựng nước non và nhắc nhớ con cháu sau này chung lưng gánh vác từ ý nghĩa cội nguồn của những truyền thuyết lấp lánh.

Mấy năm ròng dịch bệnh, hội hè lễ lạt khép lại, trì hoãn, thu hẹp quy mô như một yêu cầu tất yếu cho cuộc chiến cam go phải bảo đảm an toàn sinh mệnh con người. Năm nay, các lễ hội từ những miền danh thắng của nước non tươi thắm sẽ lại bừng lên, đón gọi. Và những bước chân hành hương cung kính, thành tâm sẽ bồi hồi trở lại, tìm về, như để tiếp thêm cho mình nguồn năng lượng từ truyền thống, từ di sản trân quý đang tiếp tục lưu truyền trong cái thời tưởng chừng đời sống cá nhân và cả cộng đồng đã chìm lấp trong tốc độ vun vút lóa mắt của số hóa, của dịch vụ trang bị đến tận bàn uống nước mỗi nhà, của những trào lưu phát ngôn và những khám phá vũ trụ.

Trên những bước chân du xuân, xa thì có những miền đất lớn, những không gian rộng rãi của núi cao, sông dài, bờ biển bát ngát, người ta tìm đến chiêm bái các bậc thánh thần biểu tượng cho muôn sắc uy linh của khí phách, của văn hóa dân tộc. Gần thì thân mật, gần gũi, nhưng vẫn luôn thiêng liêng, thành kính, là lễ hội làng mình, là những nghi lễ nghiêm cẩn nơi đình trên, miếu dưới, rồi thì thôn bên, xã bạn, quanh quanh những háo hức của hội lễ trong vùng. Mùa xuân, mùa lễ, mùa hội, mùa hành hương, ngưỡng vọng, gọi những con người còn đập trong mình ít nhiều đời sống tâm linh, những con người sống có tín ngưỡng, bước đi và thắp lên ngọn lửa nhỏ ấm cúng của mạch chảy tâm linh, tín ngưỡng ấy.

Rộng hơn thế, là bước đi nương náu tâm hồn vào những giá trị cao quý của văn hóa dân tộc, của đạo lý uống nước nhớ nguồn. Và xa nữa, cũng chính là cuộc trải nghiệm đặc sắc của mỗi con người, nhóm người, đoàn người chúng ta vào không gian bảy màu của các di sản văn hóa nghệ thuật với diễn xướng, kiến trúc đình đền, chùa chiền, với điêu khắc dân gian, với những trò vui lôi kéo làm sinh sôi thêm tình cảm, nhân lên sự cộng hưởng cộng đồng. Không có gì phải băn khoăn nữa, khi ta gọi những không gian nơi ta tìm đến ấy, là bảo tàng sống lớn lao và sinh động của văn hóa, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân tộc, đầy thiêng liêng, gắn bó, thật hoành tráng, lắm màu nhiều vẻ, có sức cuốn hút kỳ lạ và rất đỗi tinh tế, tài tình!

Mùa gọi đồng hành
Những lượt đi ngắn, nhỏ đồng hành cùng xuân mới, đã khởi lên như lộc non trổ mầm trong mấy ngày Tết.
(Ảnh: Bùi Văn Doanh)

Lại cùng với những phần lễ uy nghiêm và phần hội tưng bừng ấy, lòng người mở thêm ra với sơn thủy hữu tình, sơn thanh cảnh tú, với gấm vóc cỏ hoa đang phủ dài trên những đường đất, đồi gò. Chân ta du xuân, mắt ta ngắm nhìn tán cổ thụ ngạo nghễ che phủ mái đình hay một thân cành mảnh dẻ cheo leo nơi vách núi. Miệng ta xuýt xoa khi thấy những mỏm đá nhô lên trên mặt hồ sương khói. Tay ta chỉ cho những bằng hữu đi cùng, có nhìn thấy đằng xa kia, một vừng mây lớn tượng hình dáng người ảo mờ dải áo bay bay đang hiện ra phía rừng thông, trên mái chùa. Và lòng ta càng nôn nao nghe tiếng suối chảy ào ạt, nhìn gió mạnh đưa hơi sương trắng mịt mù quất như mưa trên một sân thiền viện… Du xuân là như thế, khi lòng người hòa nhập với thiên nhiên, gần gũi hơn với những chuyển động của trời đất, thời tiết, lắng nghe nhiều hơn vào những tiếng vọng của mùa. Hồn người lại có phần trở lại ngây thơ, hồn hậu mà đọc những ngôn ngữ của tự nhiên, gặp một phần hoang sơ, dung dị và lành mạnh trong bản chất người của mình, đâu đó vẫn đang mượn thiên nhiên mà nương náu.

Nhưng, đón chúng ta đi qua những nẻo đường, có thể nào không phải là những người đã bắt đầu xuống đồng, cặm cụi cúi mình trong gió ẩm ướt, không phải những chiếc xe máy chở hàng đã lam lũ trở lại nhịp mưu sinh thường nhật, không phải đôi ba người và nay đã là cả những chuỗi người lại nâng trên tay những cành đào nhỏ, những bó đào dăm lấm tấm đỏ nơi ngã ba, ngã tư phố phường, bán cho người muốn chưng hoa đón Nguyên tiêu. Có thể nào, chờ đón ta, để chúng ta được nhìn thấy, nghe, cảm nhận và in dấu trong suy tư của mình, những ngôi nhà cũ mới đủ kiểu, những ngõ những đường, những nhà hàng, quán xá, đèn đóm, xe cộ chen chúc, và cầu vượt cao tốc, những khu công nghiệp lớn, hay một xóm nhỏ heo hút đồng xa… Trên những con đường ta đi hội, ta hành hương, hoặc không phải thế, ta đi làm, ta bước vào ngày mới với một kế hoạch nho nhỏ nào đó, từ bất kỳ hướng nào, sẽ chờ đón chúng ta, luôn là cuộc sống náo nhiệt, ồn ã, tưng bừng, phấn khởi, hoặc lầm lụi, khuất lấp những muộn phiền. Và được nhìn, trông, bước dần vào trong ấy, những nẻo đường không bao giờ đi hết, những câu chuyện và thân phận không thể nào biết hết, hiểu hết, ấy là những hạnh phúc bâng khuâng và cả xót xa mà chúng ta, làm con người hiện hữu trong đời sống này, được ân hưởng.

Mùa xuân, mùa của Tết và lễ hội, mùa sống mới của vạn vật, lại một mùa nữa trong đời sống thăm thẳm cõi người, rủ gọi chúng ta đi, thúc giục chúng ta lên đường. Cùng với mùa, bước chân ta đến đâu cũng có mùa đồng hành, hướng về đâu cũng có mùa vẫy gọi. Và ở rất nhiều cảnh ngộ, trong tâm trạng của chúng ta, dù phấn khích, náo nức, hay khi hồ nghi, lúc chán chường, vẫn có mùa thổi từng cơn gió lành và gieo xuống những chờ đợi./.

]]>