Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:58:41 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chính sách vĩ mô 2023 sẽ linh hoạt với thực tiễn https://trithucdoanhnhan.net/bo-truong-bo-ke-hoach-va-dau-tu-chinh-sach-vi-mo-2023-se-linh-hoat-voi-thuc-tien/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:26 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2312

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh Chính phủ kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2023, nhưng sẽ điều hành linh hoạt theo thực tiễn, bối cảnh chung.

Những cụm từ “bất định”, “phức tạp”, “khó lường” là điều mà Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhiều lần nói về năm 2022 và cả những dự báo cho năm 2023. Là người đứng đầu cơ quan tham mưu tổng hợp cho Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư càng đặc biệt lưu tâm đến theo dõi, dự báo tình hình bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước.

Vào đầu năm mới, ông nhấn mạnh việc theo dõi bối cảnh thế giới là rất quan trọng, song song với đó, Bộ chủ động kiến nghị các biện pháp cải cách và điều hành kinh tế vĩ mô. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong nghiên cứu, tham mưu điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Trong đó quan trọng là cụ thể hóa về thời điểm, liều lượng và yêu cầu phối hợp giữa các chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư…

“Năm 2023, chúng tôi sẽ đề xuất Chính phủ các giải pháp, chính sách điều hành cả trong ngắn hạn, trung và dài hạn để thích ứng với tình hình, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiếp tục hoàn thiện thể chế”, ông chia sẻ.

Ổn định kinh tế vĩ mô

Theo Bộ trưởng, Việt Nam là một quốc gia đang trong hành trình đổi mới và hội nhập với thế giới, từng bước cố gắng thu hẹp khoảng cách và bắt kịp với các nước phát triển trong khu vực. Nền kinh tế có quy mô còn khá khiêm tốn, khả năng thích ứng, chống chịu trước những cú sốc đến từ bên ngoài còn hạn chế nhưng lại có độ mở lớn, dễ bị ảnh hưởng từ các biến động, dù là nhỏ của thế giới.

Do đó, việc nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế, tạo tiền đề xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong tình hình mới.

Ổn định kinh tế vĩ mô
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng (Ảnh: HH/Zing News)

Đây là một định hướng, chủ trương nhất quán, xuyên suốt, được xác định rõ trong các nghị quyết, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội mà Đảng, Nhà nước đề ra.

Năm 2023, trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn, để đạt được các mục tiêu phát triển đặt ra. Bộ trưởng nhấn mạnh cần quyết liệt, tập trung đẩy mạnh và triển khai nhanh hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của năm 2023 trên tinh thần đoàn kết kỷ cương; bản lĩnh, linh hoạt; đổi mới sáng tạo; kịp thời, hiệu quả.

“Cần kiên định, nhất quán với với quan điểm, mục tiêu, định hướng chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước; đó là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô, phù hợp với tình hình thực tiễn”, ông nhấn mạnh.

Ngoài ra, Chính phủ sẽ tiếp tục chú trọng, nâng cao công tác hoàn thiện thể chế, thực thi pháp luật, tạo điều kiện khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Tạo chuyển biến rõ nét trong thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng.

Chính phủ sẽ tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định, trật tự, an toàn xã hội để phát triển đất nước.

Sẽ có đề án hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn

Bước sang năm 2023, một trong những vấn đề được Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chia sẻ là Chính phủ sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Nhiều doanh nghiệp đang gặp phải khó khăn về thị trường, doanh số, vốn, tín dụng… Với vai trò cơ quan tổng tham mưu trưởng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư liên tục báo cáo Chính phủ và đề xuất các giải pháp hỗ trợ.

Một trong những giải pháp được ông nhấn mạnh là tiếp tục phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp thành kênh huy động vốn quan trọng, an toàn cho doanh nghiệp… Ngoài ra, Chính phủ sẽ hoàn thiện cơ chế, chính sách về trái phiếu doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ổn định và phát triển lành mạnh, an toàn, hiệu quả thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Sẽ có đề án hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn

Sẽ có đề án hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn
Chính phủ sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua những khó khăn trong năm 2023. (Ảnh: Quỳnh Danh/Zing News)

“Chính phủ cũng sẽ tiếp tục phát triển và đa dạng hóa các kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp; phát triển những loại hình định chế tài chính trung gian mới; xem xét cho phép triển khai thí điểm theo mô hình sandbox, tạo theo sự lực chọn cho nhà đầu tư và kênh hút vốn cho các doanh nghiệp”, ông nói.

Về dài hạn, theo Bộ trưởng, trong cơ cấu giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, giá trị gia tăng từ các yếu tố bên ngoài vẫn chiếm tỷ lệ lớn, trong khi tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa còn thấp, chưa có nhiều chuyển dịch đáng kể.

Xác định rõ tầm quan trọng của phát triển công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ trình, tham mưu Đảng và Nhà nước xem xét ban hành các chính sách; tập trung các nguồn lực để thúc đẩy hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn, đóng vai trò dẫn dắt hệ thống doanh nghiệp công nghiệp nội địa và vươn ra thị trường khu vực.

Tập trung hỗ trợ vào các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao sẽ giúp tạo ra sức bật nhanh, mang lại lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế, đồng thời giúp tạo ra các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn trong tương lai.

– Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng – 

Việc xác định được các doanh nghiệp có đủ bản lĩnh trở thành “sếu đầu đàn” dựa trên cơ sở đánh giá nội lực của doanh nghiệp và nguyên tắc thị trường, tránh việc sử dụng mệnh lệnh hành chính hay lắp ráp một cách cơ học.

Chính phủ sẽ tập trung phát triển các doanh nghiệp đầu đàn trong những ngành, lĩnh vực mới có tác động dẫn dắt, lan tỏa như: Cung cấp đầu vào quan trọng cho các ngành kinh tế, kết cấu hạ tầng quốc gia quan trọng, khoa học công nghệ hiện đại, đi đầu trong tăng cường quốc phòng an ninh, công nghiệp lưỡng dụng để bảo vệ tổ quốc, doanh nghiệp có khả năng chuyển đổi sử dụng năng lượng sạch và giảm thải khí carbon…

Đối với “sếu đầu đàn” là doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ sẽ tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, như cải cách hành chính, xây dựng chính phủ – chính quyền điện tử; liên thông các thủ tục giữa các bộ, ban, ngành để giúp doanh nghiệp giảm thiểu thời gian, công sức, chi phí.

Thứ hai, trong thời gian tới cần tập trung hỗ trợ vào các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao sẽ giúp tạo ra sức bật nhanh, mang lại lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế, đồng thời giúp tạo ra các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn trong tương lai.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế chính sách tạo thuận lợi cho việc tập trung kinh tế thông qua các hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A). Thứ tư, tiếp tục phát triển và đa dạng hóa các kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ năm, đẩy mạnh mô hình hợp tác công – tư.

Khơi dậy khát vọng

Cuối năm 2022 đầu năm 2023 cũng là dịp ngành kế hoạch và đầu tư kỷ niệm 77 năm thành lập. Nhân dịp này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã lần thứ hai tổ chức Chương trình nghệ thuật “Tự hào Việt Nam năm 2023″.

Khơi dậy khát vọng
Chương trình nghệ thuật “Tự hào Việt Nam” tối 31/12/2022. (Ảnh: MPI/Zing News)

Thông qua chương trình, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng mong muốn toàn thể cán bộ, công chức, viên chức ngành kế hoạch và đầu tư có “ngọn lửa nhiệt huyết, ngọn đuốc đổi mới”, khát vọng, ý chí, nghị lực, bản lĩnh, phong cách, bản sắc sống và làm việc của những người con của ngành.

Chúng ta cùng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, hun đúc thêm tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ngọn lửa nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm.

– Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng –

Với chủ đề “Nắm bắt cơ hội – Hướng tới tương lai”, chương trình năm nay thể hiện ý nghĩa bước sang năm 2023, mặc dù có thể còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng với tâm sáng, trái tim rực lửa đầy nhiệt huyết, trí tuệ và tính chuyên nghiệp, mỗi chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, tận dụng mọi cơ hội để phát triển, hướng tới triển vọng tương lai rộng mở ở phía trước.

“Chúng ta cùng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, hun đúc thêm tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ngọn lửa nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành kế hoạch và đầu tư; cùng với nhân dân cả nước, các cấp, các ngành sẵn sàng tâm thế hóa giải và vượt qua những khó khăn, thách thức, chủ động đón nhận và tận dụng những cơ hội, vận hội mới sẽ tới trong năm 2023”, ông chia sẻ.

Ông cũng nhấn mạnh thông điệp “Người dân là trọng tâm của phát triển, mọi chính sách phải hướng tới hạnh phúc người dân” xuyên suốt trong mọi hoạt động tham mưu, hoạt định chính sách của ngành kế hoạch và đầu tư, thống kê.

Bộ trưởng mong muốn các cán bộ trong ngành hãy không ngừng truyền tải thông điệp mạnh mẽ về trí tuệ – đạo đức – bản lãnh và nghị lực; luôn tu dưỡng, rèn luyện bản thân, kết hợp với tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, nỗ lực hết mình để cùng lan tỏa ngọn lửa nhiệt huyết, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường, vì khát vọng phát triển.

“Hãy cùng nhau xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn sánh vai với cường quốc 5 châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, mọi người dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc”, ông chia sẻ./.

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-tranh-lang-phi-trong-phan-bo-quan-ly-va-su-dung-dat/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:13 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2574

“Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Sáng nay (5/1), tại kỳ họp bất thường thứ 2 Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nêu các căn cứ và quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia; Thực trạng phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn vừa qua; Kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém chủ yếu, nguyên nhân.

Theo đó, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển thời kỳ 2021-2030, Quy hoạch đã quán triệt và cụ thể hóa rõ hơn 5 quan điểm về tổ chức không gian phát triển: 

Một là, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh từng vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 

Hai là, phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trong thời kỳ đến năm 2030; đồng thời, có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp với điều kiện của nền kinh tế để bảo đảm an sinh xã hội cho các khu vực khó khăn, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển. 

Ba là, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.  

Bốn là, tổ chức không gian phát triển quốc gia, các vùng, hành lang kinh tế, hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và phát triển hài hòa khu vực đô thị, nông thôn.

Năm là, tổ chức không gian phát triển quốc gia phải gắn kết giữa khu vực đất liền với không gian biển; khai thác và sử dụng hiệu quả không gian ngầm, vùng biển, vùng trời. Chú trọng việc kết nối các hành lang kinh tế trong nước với các hành lang kinh tế của khu vực và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 

Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giai đoạn 2031 – 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5 – 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 27.000 – 32.000 USD. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 – 75%. Chỉ số phát triển con người ở mức rất cao, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc…

Trong đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2030 phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm.

Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD…

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình baày tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: quochoi.vn

Để thực hiện đạt các mục tiêu đề ra, Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu ra 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch:

Một là, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.  

Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.

Ba là, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.

Bốn là, hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông – Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.  

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng đã báo cáo tóm tắt các định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực chủ yếu; Định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ; Định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; đồng thời nêu giải pháp, nguồn lực thực hiện. Theo đó, giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã dự báo tổng nhu cầu và cơ cấu vốn đầu tư để thực hiện quy hoạch, xây dựng hệ thống các giải pháp để huy động nguồn lực từ các khu vực kinh tế; đồng thời dự báo nhu cầu lao động cho nền kinh tế và đề xuất các giải pháp về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực.

Ngoài ra, trong Quy hoạch cũng đề ra các giải pháp về cơ chế, chính sách, phát triển khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế.

Cần làm rõ sự gắn kết giữa các vùng động lực quốc gia

Trình bày báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia kèm theo Tờ trình của Chính phủ đã cơ bản đáp ứng yêu cầu về danh mục tài liệu theo quy định của Luật Quy hoạch. Tại Tờ trình số 506, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua QHTTQG tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai, tuy nhiên, ngày 06/12/2022 Chính phủ mới có Tờ trình gửi đến cơ quan của Quốc hội để thẩm tra là chưa bảo đảm theo quy định của Luật Quy hoạch.

Uỷ ban Kinh tế đánh giá cao nỗ lực, cố gắng của Chính phủ trong việc phấn đấu hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia theo yêu cầu tiến độ tại Nghị quyết số 61/2022/QH15 của Quốc hội, tuy nhiên, việc chưa bảo đảm thời gian trình Quốc hội dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm tra, do đó, đề nghị Chính phủ rút kinh nghiệm và tập trung nguồn lực để bảo chất lượng Quy hoạch tổng thể quốc gia.

Về các nội dung chủ yếu, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, báo cáo tổng hợp quy hoạch được xây dựng cơ bản đã đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 22 Luật Quy hoạch, tuy nhiên còn một số nội dung cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khoa học, hợp lý. Theo đó, nội dung Báo cáo quy hoạch cơ bản đã đánh giá được các đặc điểm điều kiện tự nhiên, các yếu tố phát triển và hiện trạng phát triển quốc gia làm cơ sở để đề xuất các quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước thời kỳ 2021 – 2030. Tuy nhiên, đề nghị cần bổ sung thêm các đánh giá về ưu điểm, lợi thế của các điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, năng lực cạnh tranh… làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch…

Bên cạnh đó đề nghị cần bổ sung các phân tích, đánh giá rõ hơn về các yếu tố thuận lợi, khó khăn về vị trí địa lý, điều kiện địa hình – địa mạo, địa chất – thổ nhưỡng tài nguyên, khoáng sản, khí hậu, rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu và đánh giá các điều kiện này tác động đến phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Đồng thời, làm rõ lợi thế so sánh của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới; bổ sung đánh giá sâu hơn về dân số, nguồn nhân lực, tài nguyên nhân văn và làm rõ hơn đánh giá về hạn chế, yếu kém liên quan đến tổ chức, phát triển không gian hạ tầng văn hóa, xã hội; lâm nghiệp; thủy sản; môi trường, tài nguyên.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế cho biết, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển nêu rõ, Quy hoạch tổng thể quốc gia được lập nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021 – 2030, theo hướng phân bố không gian, phân vùng và liên kết vùng, do vậy, cần nghiên cứu làm rõ hơn, các nội dung phải định hướng trong việc sắp xếp, phân bố không gian để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược đã đề ra. Đồng thời, đề nghị bổ sung, nhấn mạnh hơn việc giảm chồng chéo, xung đột trong sử dụng không gian giữa các ngành, các địa phương và quan điểm về phát triển kinh tế biển.

Cùng với đó, mục tiêu cho việc phát triển kết cấu hạ tầng mới tập trung chủ yếu cho hạ tầng giao thông, trong khi một số ngành khác có vai trò quan trọng nhưng còn chung chung như: hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thủy lợi…

Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ về tầm nhìn đến năm 2050, đề nghị bổ sung mục tiêu về giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện, mang đầy đủ đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa; có chỉ số phát triển con người ở mức rất cao (chỉ số HDI từ 0,8 trở lên), đời sống của người dân hạnh phúc…

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: quochoi.vn

Về định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, trừ định hướng phân vùng hạn chế phát triển; các khu vực lãnh thổ cần bảo tồn, cấm khai thác, sử dụng thì các vùng còn lại đều chưa làm rõ được tiêu chí phân vùng cũng như mục tiêu phân vùng và mối quan hệ giữa các vùng. Kết cấu hiện tại chưa làm rõ được sự gắn kết giữa các vùng động lực quốc gia với nhau, với các hành lang kinh tế và với định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng. Nội dung phân tích của từng ngành chưa có sự gắn kết với định hướng phân vùng động lực và các hành lang kinh tế.

Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ các định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Đồng thời cần định hướng phát triển các khu công nghiệp sinh thái; bổ sung, làm rõ hơn các ngành công nghiệp hỗ trợ và bổ sung định hướng phát triển: Hệ thống các khu du lịch quốc gia; hạ tầng du lịch; môi trường, tài nguyên, sản phẩm và doanh nghiệp du lịch; xây dựng các hành lang di sản, các sản phẩm trong hành lang di sản.

Về định hướng sử dụng đất quốc gia, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đề nghị hoàn thiện nguyên tắc định hướng sử dụng đất như sau: “Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Về định hướng phân vùng và liên kết vùng, nội dung Báo cáo chưa đề cập tới phương án phân vùng hiện nay có những khó khăn gì do đó cần làm rõ để có đủ cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của phương án phát triển của các ngành và khả năng liên kết vùng.

Bên cạnh đó, đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc cần bổ sung định hướng phát triển công nghiệp điện tử, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đối với Vùng động lực phía Bắc và Vùng động lực phía Nam, cần bổ sung các định hướng về phát triển giáo dục, đào tạo và công nghiệp văn hóa.

Đối với danh mục dự án quan trọng quốc gia cần làm rõ cơ sở, nguyên tắc, phương án xây dựng danh mục dự án, xác định rõ thuật ngữ “dự án quan trọng của quốc gia” và “dự án quan trọng quốc gia”; cần làm rõ được tầm nhìn, quy mô chiến lược, liên kết vùng, phát triển hành lang kinh tế, vùng động lực quốc gia và phù hợp với khả năng bố trí nguồn lực đầu tư công, nguồn lực xã hội và tránh dàn trải, thiếu hiệu quả.

Về giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế đề nghị tiếp tục quán triệt sâu sắc và nghiên cứu cụ thể hóa Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đối với các nội dung này. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của đất nước.

Ngoài ra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện các sơ đồ, bản đồ thể hiện một cách thống nhất giữa nghị quyết, báo cáo quy hoạch và sơ đồ, bản đồ đối với phạm vi quy hoạch, tỷ lệ, sự tương thích… các nội dung quy hoạch. Đồng thời, đề nghị cần khẩn trương cập nhật, bổ sung, hoàn thiện Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định.

]]>
Quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-su-dung-dat-quoc-gia-phai-duoc-thuc-hien-tren-co-so-quy-hoach-tong-the-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:04 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2791

“Theo tôi, cần có sự linh hoạt trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế, nhất là khu công nghiệp, khu kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đô thị”, Đại biểu Mai Văn Hải đề nghị.

Trong phiên thảo luận Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 tại Quốc hội ngày 7/1/2023, Đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải – Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa nhận định, quy hoạch tổng thể quốc gia là một nhiệm vụ rất mới, rất khó và rất quan trọng, để chúng ta bố trí, phân bổ không gian phát triển kinh tế – xã hội, phát triển vùng, liên vùng.

Đại biểu Mai Văn Hải đánh giá rất cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ, ngành có liên quan trong vấn đề xây dựng quy hoạch. Quy hoạch được chuẩn bị rất công phu và đã hoàn thiện theo tinh thần Kết luận số 45 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050; đồng thời đề xuất một số nội dung:

Vấn đề thứ nhất, hiện đã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất quốc gia, đã được Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp thứ 2. Lần này, định hướng phần sử dụng đất quốc gia trong Quy hoạch tổng thể quốc gia, có những phần cần phải nghiên cứu thêm trong vấn đề định hướng sử dụng đất cho 8 lĩnh vực lĩnh vực nông nghiệp, lâmnghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị, cơ sở hạ tầng, đất quốc phòng, an ninh. Tất cả những định hướng này vẫn dựa trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất quốc gia, mà lẽ ra quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia.

“Theo tôi, những định hướng về sử dụng đất quốc gia thì không nên quá phụ thuộc vào quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, như thế thì mới đáp ứng được sự phân bổ các loại đất cho các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đặc biệt là đất dành cho các khu công nghiệp, khu kinh tế là đất dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đô thị và thông qua việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất. Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất quốc gia vừa rồi thì tôi thấy nhiều địa phương phản ánh việc phân bổ để phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là đất cho khu công nghiệp, đất cho giao thông, một số cơ sở hạ tầng khác chưa đáp ứng yêu cầu.

Vì vậy, tôi đề nghị cần phải có định hướng mang tính chiến lược hơn. Tôi rất đồng tình việc chúng ta định hướng giữ ổn định khoảng 3,5 triệu héc-ta đất lúa, giữ được rừng tự nhiên, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, còn lại một số loại đất khác theo tôi cần có sự linh hoạt hơn trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế, nhất là phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế, rồi đất dành cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hay là đất đô thị. Tôi đề xuất cần bổ sung thêm việc định hướng sử dụng đất đối với Khu công nghệ cao, tôi cho rằng đây là một nội dung rất quan trọng mà trong dự thảo quy hoạch chúng ta chưa đề cập đến”, ông Hải nêu.

Quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia
Theo Đại biểu Mai Văn Hải, cần có sự linh hoạt hơn trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế. Ảnh minh họa: VGP

Vấn đề thứ hai, Đại biểu Mai Văn Hải  đề nghị Quy hoạch tổng thể quốc gia cần thể hiện rõ hơn các chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển đất nước, phát triển vùng, các ngành và các địa phương, trong đó có Nghị quyết 58 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ở một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, về định hướng phát triển vùng động lực phía Bắc. Bên cạnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh thì đề xuất thêm Thanh Hóa, đã được Nghị quyết 58 của Bộ Chính trị xác định rất rõ là “xây dựng Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc”. Vì vậy, việc cụ thể hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa, việc bổ sung quy hoạch Thanh Hóa vào quy hoạch phát triển vùng kinh tế động lực cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh trở thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc là một việc rất cần thiết.

Thứ hai, về phát triển các hành lang kinh tế. Thanh Hóa là một tỉnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có vai trò kết nối vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Tây Bắc với Bắc Trung Bộ. Tôi đề nghị trong hành lang kinh tế Đông Tây ở phía Bắc nên có thêm một hành lang đó là Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình – Thanh Hóa, bởi vì Thanh Hóa có 11 huyện miền núi phía Tây lâu nay nhiều chính sách đang được thực hiện như các tỉnh ở phía Tây Bắc; 4 tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa hiện tại đang được kết nối bởi Quốc lộ 6, Quốc lộ 15 từ Hòa Bình đi Thanh Hóa.

Nếu thiết lập hành lang này sẽ có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh Tây Bắc và Thanh Hóa, bởi vì Thanh Hóa có lợi thế về cảng hàng không Thọ Xuân, khu kinh tế Nghi Sơn, cảng nước sâu Nghi Sơn, do đó hàng hóa, phương tiện của Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình đến Thanh Hóa sẽ rất thuận lợi.

Thứ ba, về định hướng ưu tiên phát triển khu vực dịch vụ tại các địa bàn. Tôi đề nghị quy hoạch cần xác định rõ hơn, cụ thể hơn việc xây dựng trung tâm logistics ở khu vực Bắc Trung Bộ. Trong dự thảo quy hoạch mới xác định được các trung tâm logistics tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu.

“Theo tinh thần Nghị quyết số 58 của Bộ Chính trị đã xác định rất rõ xây dựng trung tâm logistics cấp vùng hạng 1 tại khu vực kinh tế Nghi Sơn. Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung nội dung này vào trong quy hoạch”, ông Hải nêu.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, các ý kiến của các đại biểu Quốc hội đều rất tâm huyết, trách nhiệm, sâu sắc, có giá trị đã gợi mởi nhiều vấn về để các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện Quy hoạch. Đồng thời cho biết sẽ nghiên cứu tiếp thu xác đáng các ý kiến của các đại biểu Quốc hội.

Về sự cần thiết và tính cấp bách của xây dựng Quy hoạch, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu rõ Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để triển khai các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia và các quy hoạch khác, cũng như để thu hút đầu tư đầu tư cho các các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.

Về mức độ chi tiết, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã đảm bảo tuân thủ là một bước cụ thể hóa các Nghị quyết của Đại hội thứ XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Quy hoạch này cũng là quy hoạch tuân theo Điều 22 của Luật Quy hoạch xác định là quy hoạch cấp quốc gia mang tính chiến lược theo hướng phân vùng và liên kết vùng của lãnh thổ; tổ chức không gian phát triển của đất nước.

Các nội dung chi tiết về phân chia tiểu vùng trong các vùng, liên kết nội vùng, định hướng phát triển cụ thể của từng ngành, từng tỉnh sẽ được quy hoạch cụ thể hóa ở các quy hoạch cấp thấp hơn để tránh sự trùng lắp và chồng chéo về nội dung của các quy hoạch.

Về sự về các quan điểm phát triển và những trọng tâm, trọng điểm, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết,  quan điểm mới và quan trọng của quy hoạch lần này là phải hướng đến phát triển có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra được động lực phát triển mới, đồng thời phải đảm bảo các vấn đề về an sinh xã hội và môi trường. Theo đó, phân chia ra 2 giai đoạn:

Giai đoạn trước 2030 phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi để hình thành các vùng động lực, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo quan tâm các vấn đề về an sinh xã hội, môi trường, các đối tượng chính sách, những người nghèo, dân tộc thiểu số miền núi nhất là về y tế, giáo dục và văn hóa.

Giai đoạn sau năm 2030 sẽ hướng đến phát triển cân bằng, hài hòa và bền vững giữa các vùng miền và địa phương. 

Về hình thành và phát triển các vùng động lực, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay để lựa chọn một số địa bàn có vị trí, điều kiện thuận lợi nhất có cảng biển, cảng hàng không quốc tế, khu kinh tế ven biển, tiềm lực về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao được kết nối với các cửa khẩu quốc tế… sẽ xác định là 4 vùng động lực, sau đó có 4 cực tăng trưởng.

]]>
ĐBQH Trần Thị Hồng Thanh kiến nghị bốn vấn đề quan trọng khi thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia https://trithucdoanhnhan.net/dbqh-tran-thi-hong-thanh-kien-nghi-bon-van-de-quan-trong-khi-thuc-hien-quy-hoach-tong-the-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:04 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2794

“Cần cụ thể hóa hơn nữa các mục tiêu về phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ…”, bà Thanh nhấn mạnh.

Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình) đánh giá cao tinh thần quyết tâm, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm bù đắp khoảng trống quy hoạch tổng thể quốc gia dài hạn, cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm phát triển của Đại hội Đảng XII, các nghị quyết chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

“Điều tôi ấn tượng hơn cả, đó là sự bài bản, cầu thị của việc xây dựng quy hoạch thông qua việc trao đổi, tiếp thu ý kiến nhiều lần của Hội đồng thẩm định, các bộ, ngành trung ương và địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, học tập kinh nghiệm quốc tế. Do vậy, quy hoạch trình Quốc hội đã thể hiện đầy đủ nội dung theo yêu cầu của Luật Quy hoạch một cách có hệ thống, trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển quốc gia, tuân thủ các định hướng chiến lược phát triển có liên quan”, bà Thanh bày tỏ.

Để quy hoạch đảm bảo triển khai thực hiện thống nhất, phù hợp hơn nữa với hiện trạng và triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam, Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh góp ý bốn vấn đề:

Một là, quy hoạch cần chỉ rõ, nhấn mạnh, cụ thể hóa hơn nữa các mục tiêu về phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ, vừa là để ghi nhận những kết quả đã đạt được, vừa thể hiện quyết tâm phấn đấu rõ ràng hơn để tận dụng tốt xu hướng nguồn lực trong những lĩnh vực tiềm năng này.

“Tôi dẫn chứng một vài con số để thấy Việt Nam đã có vị thế nhất định trên trường quốc tế và những kết quả ban đầu khá ấn tượng của nước ta về phát triển kinh tế số, đổi mới, sáng tạo và nỗ lực giảm phát thải ròng trong giai đoạn 2020-2022. Theo một nghiên cứu quốc tế gần đây, kinh tế Internet của Việt Nam năm 2022 đứng thứ ba ASEAN, sau Indonesia và Thái Lan, với quy mô là 23 tỷ USD, khoảng 6,3% GDP, tăng 28% so với năm 2021. Việt Nam tăng 7 bậc về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo toàn cầu, đứng thứ 55/181 thế giới và thứ 6/10 ASEAN. Số lượng người mua sắm trực tuyến đạt 60 triệu, đứng thứ 2 ASEAN về tỷ lệ so với dân số sau Singapore. Việt Nam cũng xếp hạng 70 trên thế giới và thứ 14 trong số 50 quốc gia châu Á về công nghệ tài chính.

Theo báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022 của Việt Nam thì mức đóng góp giảm phát thải không điều kiện đến năm 2030 tăng từ 9% năm 2020 lên 15,8%, giảm thêm 62,4 triệu tấn CO2, đóng góp có điều kiện tăng từ 27% lên 43,5%, giảm thêm 150 triệu tấn CO2.

Với những quả đó, trong quy hoạch chúng ta nên xem xét, nhấn mạnh tầm nhìn đến năm 2050, đó là Việt Nam thuộc nhóm các nước phát triển kinh tế số và công nghệ tài chính hàng đầu khu vực châu Á cũng là phù hợp với nghị quyết Đại hội XIII về kinh tế số, kinh tế tuần hoàn”, bà Thanh phân tích.

Trên cơ sở đó, Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh nêu mục tiêu cụ thể cần xem xét điều chỉnh:

Thứ nhất, mục tiêu phấn đấu từ 3 đến 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế, nên điều chỉnh thành phấn đấu có 5 đến 10 đô thị xanh thông minh đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Hiện nay, chúng ta đã, đang xây dựng và triển khai đề án đô thị thông minh. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn về thành phố xanh, thông minh sẽ cần cập nhật, điều chỉnh bổ sung phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế, tập trung vào chất lượng tiêu chuẩn sống hơn là quy mô thương hiệu, đồng thời việc phát triển kết hợp giữa xanh và thông minh thể hiện mức độ cao hơn, phù hợp hơn với chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, theo Quyết định số 1658 ngày mùng 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tác động tiêu cực đến môi trường, giảm phát thải nhà kính và nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.

ĐBQH Trần Thị Hồng Thanh kiến nghị bốn vấn đề quan trọng khi thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia
Cần sớm nghiên cứu hoàn thiện bộ chỉ tiêu đánh giá tính tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế theo tiêu chuẩn quốc tế. Ảnh minh họa: NQ

Thứ hai, xem xét bổ sung chỉ tiêu về doanh nghiệp trong phát triển kinh tế số đó là số lượng doanh nghiệp chuyển đổi số thành công, đổi mới công nghệ tăng trung bình 15 đến 20% trong giai đoạn 2021-2030 và tăng 5 đến 10% trên năm đến năm 2050 nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp vốn đang tiến triển chậm, chưa đạt kỳ vọng.

Việc gia tăng số lượng doanh nghiệp chuyển đổi số, đổi mới công nghệ thành công sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ nền tảng số của Chính phủ, tổ chức và người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và Chính phủ số.

Về tăng tính độc lập, tự lực, tự cường, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế. Đây là mục tiêu phù hợp với bối cảnh mới hiện nay và sắp tới, nhất là sau dịch bệnh, xung đột vũ trang, chúng ta đã thấy vai trò quan trọng của những năng lực này.

“Việt Nam có thể đưa ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2050 đó là năng lực tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam đạt trình độ tương đương các nước phát triển trong khu vực ASEAN hoặc châu Á, bao gồm cả đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an ninh chuỗi cung ứng. Cùng với việc đưa ra các mục tiêu dài hạn, Chính phủ và các cơ quan điều hành, các tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế nên sớm nghiên cứu, hoàn thiện bộ chỉ tiêu đánh giá tính tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế theo tiêu chuẩn quốc tế”, bà Thanh nêu đề xuất.

Thứ ba, về phát triển vùng và liên kết vùng, nên chú trọng đảm bảo tính phù hợp, nhất quán giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, cực tăng trưởng về quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu, định hướng phát triển, bổ sung thêm một số chỉ tiêu về phát triển xã hội, môi trường của từng vùng. Hiện trong dự thảo chỉ có chỉ tiêu về kinh tế phù hợp với mục tiêu chung của quốc gia và quy hoạch vùng.

Ngoài ra, nên bổ sung mục tiêu liên kết phát triển vùng toàn diện, hiệu quả, là một trong những mục tiêu quan trọng trong thời kỳ quy hoạch 2021-2030. Theo đó, đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp về liên kết trong nội vùng và giữa các vùng không chỉ liên kết về giao thông mà còn liên kết về phát triển công nghiệp chế tạo, dịch vụ logistics, du lịch, phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số theo hướng phát huy tối đa lợi thế vượt trội, đặc trưng của từng vùng, miền.

Thứ tư, về giải pháp nguồn lực thực hiện quy hoạch, dự thảo đang chưa phân tách rõ các nguồn lực cần để thực hiện quy hoạch và các giải pháp để khai thác hiệu quả tối ưu các nguồn lực; đồng thời các giải pháp cũng chỉ mới nêu ở mức tổng quan, sơ bộ, chưa chi tiết, cụ thể.

“Bên cạnh nguồn lực về cơ chế, chính sách khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực như dự thảo thì cần nghiên cứu, xem xét bổ sung các nguồn lực để thực hiện quy hoạch như hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng số, hạ tầng kinh tế tuần hoàn, hạ tầng bảo vệ môi trường, hạ tầng an ninh mạng.

Đồng thời, giao Chính phủ xây dựng hệ thống giải pháp chi tiết hơn, đầy đủ, rõ ràng hơn đối với từng nguồn lực có gắn với việc phát triển các thị trường, cho các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như thị trường khoa học, công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường tài chính, thông tin dữ liệu số, góp phần đảm bảo tính khả thi trong triển khai các quy hoạch”, đại biểu Thanh đề nghị.

Báo cáo tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết: “Về các vùng động lực quốc gia, trong thời kỳ trước chúng ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm với một quy mô khá lớn, gồm 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chiếm tới 27,5% diện tích của cả nước, 53,1% dân số cả nước. Các vùng kinh tế trọng điểm này chưa thực sự trở thành các vùng động lực, nhiều địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm này vẫn đang còn có trình độ phát triển dưới hoặc là tương đương với mức trung bình của cả nước.

Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay thì việc lựa chọn một số địa bàn có vị trí, điều kiện thuận lợi nhất, có cảng biển, cảng hàng không quốc tế, khu kinh tế ven biển, tiềm lực về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao được kết nối với các cửa khẩu quốc tế thì sẽ xác định ra 4 vùng động lực, sau đó có 4 cực tăng trưởng như trong báo cáo đã đề ra, ưu tiên cả về thể chế và nguồn lực để phát triển nhanh hơn, đóng góp lớn hơn, tạo sự lan tỏa nhiều hơn cho cả vùng xung quanh và cho cả nước. Còn các vùng khác thì  đã đưa ra định hướng là sẽ dần hình thành các vùng động lực mới ở Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc. Trong quá trình phát triển, nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ điều chỉnh và bổ sung các vùng động lực mới để phát huy được tối đa tất cả các lợi thế, tiềm năng, thế mạnh của các vùng, các địa phương chứ không phải chỉ bó hẹp như thế. Nhưng hiện nay với điều kiện cụ thể để tập trung trọng tâm, trọng điểm thì chúng tôi chỉ lựa chọn 4 vùng này.

Việc hình thành các hành lang kinh tế là nhằm tăng cường tính liên kết nội vùng, liên vùng và cả nước, các hành lang giao thông này đã có và sẽ trở thành các hành lang trọng điểm kinh tế. Các hành lang kinh tế được lựa chọn gắn với cả các tuyến giao thông đường bộ, cao tốc, đường sắt, kết nối các đô thị, các trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng, các cảng biển, các cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế từ đầu mối giao thương lớn và ưu tiên phát triển các hành lang kinh tế với vùng động lực của quốc gia, các hành lang kinh tế kết nối với hành lang kinh tế của khu vực và quốc tế, có sự tính toán và gắn kết với các hành lang của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, hôm nay có nhiều đại biểu đề nghị bổ sung thêm một số tuyến hành lang, chúng tôi xin phép được tiếp tục nghiên cứu, nếu thấy phù hợp thì sẽ báo cáo để bổ sung thêm một số hành lang khác”.

]]>