Công trình xanh – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Công trình xanh – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Công trình xanh – Động lực và phương tiện phát triển kinh tế tuần hoàn https://trithucdoanhnhan.net/cong-trinh-xanh-dong-luc-va-phuong-tien-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:51 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1496

Để giải quyết các bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường, giảm khai thác nguồn tài nguyên hữu hạn thì mô hình kinh tế tuần hoàn đang được các cấp chính quyền đô thị và tập đoàn kinh tế, BĐS từng bước khai thác.

Để giải quyết các bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường, giảm khai thác nguồn tài nguyên hữu hạn thì mô hình kinh tế đang được triển khai và trở thành xu hướng phát triển của các doanh nghiệp xây dựng, bất động sản và nhiều quốc gia đó là Kinh tế tuần hoàn từ những công trình xanh. 

Mô hình kinh tế tuần hoàn

Tại hội thảo Động lực phát triển kinh tế năm 20223 do Bộ Xây dựng tổ chức mới đây, nhiều chuyên gia kinh tế, bất động sản phân tích, giá trị sản xuất ngành Xây dựng, bất động sản luôn có mức tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng đóng góp lớn GDP cho đất nước và đang góp phần tái cơ cấu nền kinh tế như tái cơ cấu đầu tư công, tham gia vào 3 đột phá của nền kinh tế, về cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, có mặt trái là ảnh hưởng của rác thải vật liệu xây dựng đang gây nguy cơ ô nhiễm môi trường, hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu, cần nhiều loại vật liệu thô được khai thác mới để bổ sung và nâng cao nhận thức cho các chủ đầu tư trong sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường.

Mô hình kinh tế tuần hoàn
Khu đô thị Văn hóa – Thương mại – Du lịch Làng Sen Việt Nam đạt chứng chỉ công trình xanh Việt Nam.

Song, nguồn vật liệu thô này không vô hạn, sự suy giảm tài nguyên, sử dụng năng lượng quá tải, ô nhiễm đất, nước và không khí, sự tăng dân số và đô thị hóa lại đang đe dọa đến mọi nền kinh tế, trong đó có Việt Nam. Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2020 do Ngân hàng Thế giới công bố những thiệt hại của nền kinh tế bởi thảm họa về môi trường tại Việt Nam cho biết, ô nhiễm nước gây thiệt hại 3,5% GDP và ô nhiễm không khí đã gây tổn thất khoảng 5,18% GDP…

Để giải quyết các bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường, giảm khai thác nguồn tài nguyên hữu hạn thì mô hình kinh tế tuần hoàn đang được các cấp chính quyền đô thị và tập đoàn kinh tế, bất động sản từng bước khai thác. Mô hình kinh tế tuần hoàn là mô hình sản xuất và tiêu dùng, gồm: Chia sẻ, cho thuê, tái sử dụng, sửa chữa, làm mới, tái mục đích và tái chế các nguyên vật liệu và sản phẩm hiện có lâu nhất có thể, nhằm kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm tối đa lượng rác thải vật liệu, tăng giá trị vật liệu ban đầu. Đơn giản hơn, kinh tế tuần hoàn là biến rác của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xây dựng.

Kinh tế tuần hoàn góp phần gia tăng giá trị doanh nghiệp; giảm khai thác tài nguyên; giảm chi phí xử lý chất thải; bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển kinh tế vĩ mô, tăng lợi ích xã hội. Mô hình này mang lại công cụ giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, sự suy giảm đa dạng sinh học, trong khi vẫn hướng đến nhu cầu quan trọng của xã hội; đồng thời, giúp gia tăng tài sản, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy sự phục hồi, trong khi vẫn cắt giảm lượng khí thải nhà kính, rác thải và ô nhiễm.

Tại Việt Nam, khái niệm mô hình Kinh tế tuần hoàn đã xuất hiện từ cách đây 20 năm dưới những chương trình khác nhau như: Mô hình VAC (Vườn – Ao – Chuồng), khu công nghiệp sinh thái, sản xuất sạch hơn, không phát thải. Do vậy, theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, “việc lựa chọn mô hình kinh tế tuần hoàn đối với Việt Nam là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh phục hồi, phát triển kinh tế, nhằm khắc phục hạn chế của mô hình tăng trưởng truyền thống. Phát triển kinh tế tuần hoàn giúp Việt Nam tránh lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài, nhất là về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ sản xuất. Việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là cơ hội lớn để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, mà còn giúp đạt được các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”.

Động lực từ những công trình xanh tại Việt Nam

Theo Hội đồng Công trình xanh Việt Nam (VGBC), đến thời điểm này, cả nước có 250 công trình xây dựng, bất động sản đã được đăng ký và chứng nhận công trình xanh (Lotus) theo Bộ quy chuẩn quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả. Đơn cử như những công trình: Trường liên cấp Genesis trên đường Nguyễn Văn Huyên, quận Tây Hồ (Hà Nội); Trường Quốc tế Concordia ở huyện Đông Anh (Hà Nội); Khu đô thị Văn hóa – Thương mại – Du lịch Làng Sen Việt Nam và dự án Diamond Lotus Riverside của Công ty CP Đầu tư và Xây dựng Phúc Khang; Nhà máy Đồng Phú Cường ở Cụm Công nghiệp Phú Cường (Đồng Nai), Văn phòng Apple tại TP.HCM; dự án Trường mầm non TD do Capital House đầu tư…

Con số các công trình xanh của Việt Nam nêu trên quá khiêm tốn so với số lượng công trình đã được xây dựng hiện nay đưa vào hoạt động và so với tiềm năng, cũng như yêu cầu về sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường. Song, trong quá trình khai thác, sử dụng Công trình xanh đang là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực xây dựng, khi các công trình ngày càng thể hiện trách nhiệm của chủ đầu tư cao hơn với tài nguyên thiên nhiên, với môi trường, hệ sinh thái và với chất lượng cuộc sống con người thông qua các nỗ lực toàn diện trên các khía cạnh: Thiết kế, thi công, sản xuất thiết bị, công nghệ, vật liệu, chính sách và tài chính.

Xu hướng thiết kế và xây dựng xanh ở Việt Nam đang ngày càng phát triển ở nước ta. Các kiến trúc sư hiện nay đã có nhiều sáng tạo trong thiết kế các ngôi nhà “xanh” nhờ: Thông thoáng hơn, nhiều cây xanh hơn, cách nhiệt tốt hơn. Đây chính là nhóm giải pháp thiết kế thụ động (không dùng thiết bị, công nghệ, mà bằng các giải pháp thiết kế thi công để cải tạo vi khí hậu). Song, thực tế hiện nay, các công trình xanh ở Việt Nam đang là tự nguyện, tự lực của các chủ đầu tư, không có hướng dẫn, quy định hay khuyến khích bằng thưởng phạt gì từ các cơ quan Nhà nước. 

Theo bà Lưu Thị Thanh Mẫu, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư và Xây dựng Phúc Khang, xây dựng công trình xanh vừa là động lực, vừa là phương tiện để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Việt Nam đã và đang có những nỗ lực tạo ra một hướng đi cho công trình xanh thể hiện qua các chiến lược, định hướng, kế hoạch hành động của Nhà nước về công trình xanh như: Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng Xanh, Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh, Nghị quyết về Phát triển bền vững, Chương trình quốc gia về Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 – 2030… Tuy nhiên, những định hướng vẫn chỉ là những chỉ dẫn chung, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định riêng cho công trình xanh về tiêu chí xác định, cũng như các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển công trình xanh, mặc dù nội dung phát triển công trình xanh đã được đưa vào Luật Xây dựng (sửa đổi, tháng 6/2020).

Do đó, xây dựng khung pháp lý cho dự án công trình xanh ở Việt Nam là vấn đề cấp thiết nhằm nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện, chính xác những thành quả cũng như những hạn chế trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về công trình xanh. Thông qua đó, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư xây dựng công trình xanh tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triền kinh tế tuần hoàn nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tạo xu hướng phát triển công trình xanh, cùng nhau kiến tạo nên Việt Nam xanh và bền vững hơn.

Gần đây, Luật Xây dựng sửa đổi (2020) cũng một lần nữa khẳng định quan điểm khuyến khích phát triển công trình xanh, công trình năng lượng Liên hiệp quốc và củng cố vai trò của Bộ Xây dựng trong công tác này. Như vậy, công trình xanh đang có rất nhiều triển vọng và sẽ trở thành một trong những nội dung trọng tâm của Chiến lược phát triển kiến trúc Việt Nam, cũng như chiến lược “xanh hoá” ngành Xây dựng, chuyển đổi thị trường xây dựng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường.

“Hiện nay, với tình hình thực tiễn của Việt Nam chỉ cần yêu cầu chủ đầu tư các công trình xây dựng, bất động sản làm Lotus theo Bộ quy chuẩn quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả ở mức đạt. Mức này không quá khó, chi phí phát sinh chỉ chiếm 1% tổng mức đầu tư. Với các doanh nghiệp khu vực đầu tư vốn tư nhân, tất cả các bộ công cụ khác vẫn có thể được áp dụng, được khuyến khích và tạo điều kiện”, PGS.TS.KTS. Phạm Thúy Loan, Viện phó Viện Kiến trúc quốc gia nhận định./.

]]>
Ứng dụng công nghệ, kỹ thuật và công cụ đánh giá nhằm nâng cao chất lượng công trình xanh tại Việt Nam https://trithucdoanhnhan.net/ung-dung-cong-nghe-ky-thuat-va-cong-cu-danh-gia-nham-nang-cao-chat-luong-cong-trinh-xanh-tai-viet-nam/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:42 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1792

Các giải pháp kỹ thuật hiện đại và phương pháp tiếp cận khoa học có thể giúp doanh nghiệp giảm phát thải carbon và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng tại công trình xây dựng.

Tại Hội thảo đào tạo “Thúc đẩy phát triển công trình phát thải ròng bằng 0 – Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp khuyến nghị cho Việt Nam”, ông Nguyễn Công Thịnh – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Xây dựng) chia sẻ, số lượng công trình xanh tại Việt Nam hiện nay là rất ít, chỉ khoảng gần 250 công trình trên tổng số 6 triệu mét vuông sàn. Đây là một con số khá xa so với sự phát triển vượt bậc về số lượng công trình xanh tại các quốc gia khác như Anh, Mỹ, Liên minh Châu Âu. 

Do đó, để thúc đẩy nhanh quá trình hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam, rất cần sự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao tri thức và hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức, chuyên gia quốc tế đến từ các quốc gia, khu vực dẫn đầu trong lĩnh vực công trình xanh như Anh, Mỹ, Liên minh Châu Âu. 

Theo bà Phan Thu Hằng, Chủ tịch hội đồng thành viên Hội đồng Công trình xanh Việt Nam (VGBC), năm 2021, lĩnh vực công trình và xây dựng chiếm khoảng 37% lượng khí thải CO2 liên quan đến năng lượng và vận hành, cũng như chiếm khoảng 34% nhu cầu năng lượng toàn cầu. 

Bên cạnh lượng khí carbon thải ra trong quá trình vận hành công trình (operational carbon), lượng khí thải carbon thải ra trước khi công trình được đưa vào sử dụng (carbon trả trước hoặc carbon hàm chứa – embodied carbon) sẽ chiếm một nửa lượng carbon phát thải của toàn bộ công trình xây dựng mới từ giờ cho đến năm 2050. Carbon hàm chứa là lượng khí CO2 phát thải trước và sau quá trình vận hành của tòa nhà, chủ yếu đến từ sản xuất, vận chuyển và sử dụng vật liệu xây dựng.

Do đó, để tiến hành khử carbon hoàn toàn trong các công trình xây dựng, cần phải tiếp cận và đo lường lượng khí thải carbon trước, trong và sau quá trình sử dụng tòa nhà, nghĩa là toàn bộ vòng đời của nó. Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhà điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng – kiến trúc trong nước và quốc tế đã giới thiệu, phân tích hiệu quả và tính ứng dụng của những giải pháp kỹ thuật hướng tới “công trình net zero” (công trình không phát thải) dựa trên phương pháp tiếp cận toàn bộ vòng đời và các chiến lược tập trung bao gồm: Tăng hiệu quả năng lượng; Sử dụng năng lượng tái tạo; Giảm carbon hàm chứa. 

Tăng cường hiệu quả năng lượng (Energy Efficiency) 

Chiến lược tăng cường hiệu quả năng lượng tập trung vào việc giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng (chủ yếu là điện năng) để làm mát, sưởi ấm, thông khí,… trong các tòa nhà. Thông qua các phương pháp tối ưu hóa nguồn năng lượng bằng cách thay đổi thiết kế hoặc sử dụng công cụ đo lường, nhà vận hành tòa nhà có thể tiết kiệm và kiểm soát đầu vào, đầu ra năng lượng một cách hiệu quả. 

Trước hết, các phương pháp tiết kiệm điện và tối ưu hóa nguồn năng lượng tự nhiên bao gồm thiết kế thụ động (passive design) và thiết kế MEP. Thiết kế thụ động là giải pháp tập trung vào kiến trúc, khâu thiết kế tòa nhà nhằm tận dụng các điều kiện thuận lợi của khí hậu để duy trì phạm vi tiện nghi nhiệt trong nhà. Thiết kế thụ động tốt sẽ làm giảm, loại bỏ sự cần thiết của thiết bị làm mát hoặc sưởi ấm, từ đó giảm tiêu thụ năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính trong suốt vòng đời của công trình.

Các kỹ thuật thiết kế thụ động cơ bản bao gồm: quy hoạch tổng thể, chọn hướng và hình khối nhà; bố trí mặt bằng công năng phù hợp với mặt trời và gió; tổ chức chiếu sáng tự nhiên; thiết kế mặt đứng; tổ chức thông gió tự nhiên; thiết kế cách nhiệt cho tường và mái; thiết kế cảnh quan điều tiết vi khí hậu (cây xanh, mặt nước,…). Những kỹ thuật này đều nhằm mục đích tận dụng điều kiện ánh sáng và gió tự nhiên, lựa chọn vật liệu cách nhiệt, làm mát, vật liệu cho lớp vỏ công trình phù hợp từ đó tối ưu hóa tiện nghi, hạn chế sử dụng thiết bị điện để điều chỉnh nhiệt độ và đảm bảo thẩm mỹ cho công trình. Đích đến của thiết kế thụ động có thể hiểu đơn giản là giúp ngôi nhà mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông mà không cần dùng nhiều và thường xuyên điều hòa, máy sưởi. 

công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng, công trình không phát thải, xây dựng bền vững, kiến trúc bền vững, net zero
Một trong những công trình thụ động đầu tiên trên thế giới tại thành phố Darmstadt (Đức). (Ảnh: PHI)

Khác với thiết kế thụ động hướng đến giảm carbon phát thải và tiết kiệm năng lượng bằng kiến trúc thông minh, thiết kế MEP tập trung vào hệ thống kỹ thuật của công trình. MEP là viết tắt của Mechanical, Electrical và Plumbing, nghĩa là cơ khí, điện và ống dẫn nước. Đây là ba hệ thống kỹ thuật cơ bản đem lại “sự sống” cho công trình. Thiết kế MEP hướng đến tăng cường sự tương tác giữa ba hệ thống này nhằm đem lại sự tiện nghi tối ưu cho người sử dụng. 

Lợi ích của thiết kế MEP thay vì thiết kế biệt lập từng hệ thống bao gồm: kiểm soát lượng khí thải CO2, giảm tiêu thụ năng lượng tổng thể; cải thiện hiệu suất tòa nhà thông qua các thành phần hệ thống; tích hợp sử dụng năng lượng bền vững, giảm áp lực đến lưới điện chung; tiết kiệm nước thông qua các kỹ thuật dẫn nước thông minh. Thiết kế MEP còn có thể giúp chủ đầu tư tiết kiệm chi phí và tránh xung đột cục bộ giữa các thiết bị điện trong tòa nhà. 

Bên cạnh các giải pháp thiết kế, ứng dụng phần mềm mô phỏng năng lượng và công nghệ theo dõi, kiểm soát mức tiêu thụ năng lượng cũng có thể giúp công trình sử dụng năng lượng hiệu quả hơn.

Mô phỏng năng lượng hay mô hình hóa năng lượng công trình (Building Energy Modeling – BEM) là một mô hình/phần mềm tính toán với thông số đầu vào là dữ liệu địa lý, thời tiết, thông số hình học, đặc tính hoạt động, dữ liệu vận hành của công trình, thông qua phân tích, giả lập để xuất ra các thông tin như mức tiêu thị năng lượng, tiện nghi nhiệt, độ ẩm, chiếu sáng, giúp kiến trúc sư lựa chọn được phương án xây dựng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng nhất. Phần mềm mô phỏng năng lượng được dùng ở giai đoạn thiết kế nhằm so sánh, phân tích hiệu quả và chi phí của các giải pháp thiết kế trong giai đoạn vận hành, từ đó đề xuất giải pháp tối ưu, hướng đến công trình tự cân bằng năng lượng (Net Zero Energy Building). 

công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng, công trình không phát thải, xây dựng bền vững, kiến trúc bền vững, net zero
Mô phỏng năng lượng tòa nhà trong từng giai đoạn thiết kế trên phần mềm mô phỏng Revit. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Khi tòa nhà đã đưa vào vận hành, chủ đầu tư cũng có thể kiểm soát năng lượng tiêu thụ thông qua Hệ thống quản lý tòa nhà (Building Management System – BMS). BMS là hệ thống đồng bộ cho phép điều khiển và quản lý mọi hệ thống kỹ thuật trong tòa nhà, đảm bảo cho việc vận hành các thiết bị trong tòa nhà được chính xác, kịp thời, hiệu quả, tiết kiệm năng lượng và chi phí vận hành. 

BMS điều khiển và giám sát các hệ thống như: trạm phân phối điện, máy phát điện dự phòng, hệ thống chiếu sáng, điều hòa, thông gió, cấp nước, hệ thống báo cháy và chữa cháy, thang máy, âm thanh công cộng, thẻ kiểm soát ra vào và hệ thống an ninh. Một BMS cơ bản bao gồm phần mềm, máy chủ chứa cơ sở dữ liệu và các cảm biến thông minh có kết nối Internet. Các cảm biến thông minh xung quanh tòa nhà thu thập dữ liệu và gửi đến cơ sở dữ liệu của BMS. Nếu một cảm biến báo cáo dữ liệu nằm ngoài các điều kiện được xác định trước, BMS sẽ kích hoạt báo động. Hệ thống cho phép nhà vận hành công trình quản lý các thiết bị kỹ thuật từ xa theo yêu cầu và thời gian thực, lưu trữ, sắp xếp và quản lý dữ liệu một cách chính xác, đồng bộ, theo dõi môi trường bên trong tòa nhà và cảnh báo sự cố, rủi ro có thể xảy ra. 

Sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch

Năng lượng tái tạo là năng lượng được tạo ra từ các nguồn hình thành liên tục, có thể coi là vô hạn như gió, mưa, năng lượng mặt trời, sóng biển,… Năng lượng tái tạo có thể được thu thập và sử dụng thông qua các thiết bị chuyên dụng như tuabin gió, tấm pin năng lượng mặt trời. Việt Nam có tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo rất lớn. Theo các chuyên gia, tốc độ phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam rất ấn tượng. 3 năm trước Việt Nam không có tên trên bản đồ năng lượng tái tạo, nhưng đến nay Việt Nam đứng top 10 thế giới về sử dụng nguồn năng lượng này, theo Clean Energy Investment Accelerator (CEIA) đánh giá.

Tuy nhiên, với các công trình xây dựng, đặc biệt là các tòa nhà đô thị, việc lắp đặt các thiết bị sản xuất năng lượng tái tạo gặp khá nhiều khó khăn do không có đủ diện tích không gian. Nguồn năng lượng tái tạo được sử dụng phổ biến tại Việt Nam là năng lượng mặt trời. Hiện nay, nhiều khu vực dân cư ngoại ô hoặc các nhà xưởng nhỏ lẻ cũng đã tích cực sử dụng tấm pin năng lượng mặt trời để thay thế hoàn toàn hoặc thay thế một phần điện truyền thống. 

Ông Xiangnan Chun, chuyên gia về Hiệu quả năng lượng và Năng lượng tái tạo tại Công ty Tư vấn kiến trúc toàn cầu ARUP (văn phòng Singapore) chia sẻ, các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam có thể tích hợp năng lượng tái tạo tại công trình theo 3 cách: sản xuất tại chỗ tự phục vụ cho công trình, tổng hợp nhu cầu từ nhiều bên và lập hóa đơn mua chung, mua năng lượng tái tạo thông qua Hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA). 

Hiện nay, Bộ Công Thương đang trong quá trình hoàn thiện Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định thí điểm cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn (DPPA). Trong thời gian tới, khi cơ chế, chính sách về mua bán năng lượng tái tạo được triển khai, các nhà đầu tư xây dựng có thể thuận lợi tích hợp sử dụng năng lượng tái tạo tại công trình, từ đó giảm áp lực đến lưới điện quốc gia đồng thời giảm phát thải CO2. 

Đối với phương án tự sản xuất năng lượng tái tạo tại chỗ với các thiết bị vật lý, hiện nay một số công ty trên thế giới đã nghiên cứu thành công và bắt đầu phát triển các sản phẩm sản xuất năng lượng tái tạo tích hợp, gọn nhẹ và không tốn diện tích. Unéole, một công ty có trụ sở tại Ronchin, Pháp đã thiết kế một hệ thống tạo năng lượng tái tạo lý tưởng bằng phương pháp kết hợp tuabin gió và tấm pin mặt trời chỉ trong một tổ hợp thiết bị. 

công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng, công trình không phát thải, xây dựng bền vững, kiến trúc bền vững, net zero
Thiết bị tích hợp điện gió và điện mặt trời của Unéole. (Nguồn: Youtube)

Sản phẩm của Unéole có thể tối đa hóa sản lượng điện cao hơn 40% so với chỉ sử dụng năng lượng mặt trời thuần túy. Đặc biệt, thiết kế sản phẩm có thể khắc phục điểm yếu không ổn định của năng lượng tái tạo. Trong trường hợp nguồn năng lượng tái tạo này bị suy giảm (ví dụ trời âm u, không sản xuất được điện mặt trời), thiết bị có thể tự động chuyển sang nguồn sản xuất tái tạo khác hoặc sử dụng một phần năng lượng của cả 2 nguồn để đáp ứng nhu cầu năng lượng.

Trong tương lai, các công trình xây dựng mới sẽ không chỉ xem nguồn năng lượng điện truyền thống là giải pháp duy nhất đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng của con người. Những nguồn năng lượng tái tạo sạch với giá cả cạnh tranh sẽ là lựa chọn hấp dẫn với các nhà đầu tư. 

Giảm carbon hàm chứa thông qua đánh giá vòng đời (LCA)

Carbon hàm chứa (embodied carbon) chủ yếu sinh ra từ vật liệu xây dựng. Những vật liệu xây dựng truyền thống như xi măng, bê tông chịu trách nhiệm cho 11% tổng lượng khí CO2 phát thải. Lượng carbon hàm chứa sinh ra từ quá trình vận chuyển, sử dụng vật liệu xây dựng cũng được tính là lượng carbon phát thải từ công trình trong phương pháp tiếp cận toàn bộ vòng đời. Có nghĩa là ngay cả khi tòa nhà đã sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tích hợp năng lượng tái tạo nhưng vẫn sử dụng vật liệu sản sinh carbon hàm chứa thì công trình đó không thể tiến tới trở thành công trình không phát thải carbon (Net Zero Carbon Building – NZCB). 

công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng, công trình không phát thải, xây dựng bền vững, kiến trúc bền vững, net zero
Lĩnh vực xây dựng chịu trách nhiệm cho 40% carbon phát thải, trong số đó 11% đến từ vật liệu xây dựng. (Nguồn: Architecture 2030)

Vậy làm thế nào để chủ đầu tư biết được đâu là vật liệu xây dựng không phát thải? Các nhà sản xuất vật liệu xây dựng tiến bộ đã bắt đầu kết hợp các chương trình Đánh giá vòng đời (Life Cycle Assessment – LCA) và dán nhãn Tuyên bố Sản phẩm vì môi trường (Environmental Product Declaration – EPD) vào chiến lược phát triển sản phẩm của họ để từ đó cung cấp cho chủ đầu tư công trình một dữ liệu minh bạch về tính bền vững của sản phẩm. 

Theo Hội đồng Công trình xanh Việt Nam (VGCB), Đánh giá vòng đời (LCA) là phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá tất cả các tác động môi trường liên quan đến mọi giai đoạn của vòng đời sản phẩm, bao gồm khai thác nguyên liệu thô đến giai đoạn chế biến, sản xuất, phân phối, sử dụng, thải bỏ hay tái sử dụng. Khung đánh giá của LCA được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn 14040 và 14044 từ Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO). Thông qua LCA, nhà sản xuất và khách hàng được cung cấp một cái nhìn tổng thể về tác động môi trường của sản phẩm một cách khách quan và minh bạch. 

EPD là các báo cáo được xác minh độc lập dựa trên các nghiên cứu đánh giá vòng đời LCA. Các nghiên cứu LCA phải được thực hiện theo một tập hợp các quy tắc chung cho từng danh mục sản phẩm và được xác minh bởi các đơn vị điều hành chương trình – các bên thứ ba độc lập. EPD cung cấp các chỉ số định lượng khác nhau của sản phẩm như tác động môi trường, tiêu thụ tài nguyên (ví dụ mức tiêu thụ nước) hay lượng chất thải. EPD có giá trị từ 3 đến 5 năm.

công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng, công trình không phát thải, xây dựng bền vững, kiến trúc bền vững, net zero
Xi măng INSEE là một trong những sản phẩm vật liệu xây dựng đầu tiên ở Đông Nam Á nhận chứng chỉ EPD quốc tế. (Ảnh: INSEE) 

Hiện nay, việc tiến hành đánh giá LCA và gắn nhãn EPD cho sản phẩm đều là tự nguyện, tuy nhiên LCA/EPD đều là những điều kiện bắt buộc trong các tiêu chuẩn đánh giá công trình xanh như LEED, BREEAM, LOTUS. Thông qua EPD, khách hàng có thể hiểu được những tác động môi trường trước, trong và sau khi sử dụng vật liệu xây dựng, cũng như có những bằng chứng thuyết phục về tính bền vững của công trình. 

Không thể phủ nhận rằng công trình xanh có lợi ích to lớn với môi trường, xã hội, là bước tiến cần thiết của lĩnh vực xây dựng – kiến trúc trong định hướng kinh tế tuần hoàn. Một công trình xanh đạt chuẩn có thể giúp tiết kiệm 25% đến 67% năng lượng tiêu thụ, giảm đáng kể lượng khí CO2 phát thải, giúp cả chủ đầu tư và người sử dụng giảm chi phí vận hành và hóa đơn điện nước. 

Do đó, cần phải khuyến khích ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại cũng như các công cụ đánh giá khách quan để nâng cao số lượng và chất lượng công trình xanh tại Việt Nam. Trong đó, cần phải nhấn mạnh vai trò của các doanh nghiệp là chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, đơn vị thi công, thiết kế, lắp ráp kỹ thuật trong việc lựa chọn các giải pháp tối ưu về hiệu quả năng lượng và giảm phát thải carbon./.

]]>