đô thị bền vững – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:58:23 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg đô thị bền vững – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Phát triển mạng lưới đô thị bền vững, giàu tính liên kết và chia sẻ vai trò kinh tế – xã hội https://trithucdoanhnhan.net/phat-trien-mang-luoi-do-thi-ben-vung-giau-tinh-lien-ket-va-chia-se-vai-tro-kinh-te-xa-hoi/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:23 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2355

Nhằm đạt được các mục tiêu trong quy hoạch không gian phát triển quốc gia, cần tăng cường tính liên kết giữa các đô thị, định hướng xây dựng mạng lưới đô thị bền vững, có khả năng chia sẻ chức năng kinh tế – xã hội.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã ban hành kết luận số 45-KL/TW ngày 17/11/2022 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, những năm qua, phát triển và tổ chức không gian phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trên lãnh thổ đất nước đạt được nhiều kết quả quan trọng. Phát triển vùng, liên kết vùng chuyển biến tích cực, hình thành nhiều vùng kinh tế lớn, quan trọng cho phát triển đất nước. Bước đầu hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, liên vùng, nhất là các hành lang gắn với các đô thị lớn. Không gian đô thị được mở rộng, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Kết luận cũng nhìn nhận thực tế tổ chức không gian phát triển vẫn còn một số hạn chế, bất cập, đặc biệt trong quy hoạch mạng lưới đô thị gắn với liên kết vùng kinh tế. Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, tính liên kết còn yếu, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tác động lan tỏa còn hạn chế. Chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch còn dàn trải, hiệu quả thấp; chưa hình thành được các cụm liên kết ngành quốc gia quy mô lớn…

Trong khi đó, từ năm 2009, Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã xác định hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 được phát triển theo mô hình mạng lưới (liên kết mạng), trên cơ sở kịch bản phát triển theo từng giai đoạn, phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo từng thời kỳ và hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ năm 2009 đến năm 2015, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và các khu kinh tế tổng hợp đóng vai trò là cực tăng trưởng chủ đạo cấp quốc gia; từ sau năm 2016 đến năm 2025, ưu tiên phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ; giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2050 chuyển dần sang phát triển theo mô hình mạng lưới đô thị (liên kết mạng).

Như vậy, để đạt được mục tiêu phát triển hệ thống đô thị theo mô hình mạng lưới, nâng cao vai trò của đô thị trong tăng trưởng kinh tế – xã hội, cần giải quyết được vấn đề về tính liên kết giữa các đô thị về cả chiều rộng và chiều sâu. 

Reatimesđã có cuộc trò chuyện với TS.KTS. Lê Phong Nguyên – Trưởng bộ môn Quy hoạch, Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng để mở rộng phạm vi, tiếp cận vấn đề liên kết đô thị và mô hình mạng lưới dưới góc nhìn của khoa học kiến trúc và quy hoạch đô thị. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
TS.KTS. Lê Phong Nguyên lấy bằng Tiến sĩ ngành Kiến trúc tại Đại học Tokyo Metropolitan (Nhật Bản) năm 2017, có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Kiến trúc, Quy hoạch đô thị tại Đại học Đà Nẵng. 

HỆ THỐNG ĐÔ THỊ VIỆT NAM CẦN HÌNH THÀNH ĐƯỢC LIÊN KẾT CHIỀU SÂU 

PV: Chuyên gia đánh giá như thế nào về mạng lưới đô thị Việt Nam hiện nay? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Rõ ràng, chúng ta có thể thấy được trong vòng 10 – 20 năm trở lại đây, số lượng đô thị ở Việt Nam tăng lên rất nhanh, có thể tính theo cấp số nhân. Tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh với tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% vào năm 2010 đến 40,4% vào năm 2020.

Tuy tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng tỷ lệ đô thị hóa tại Việt Nam so với mặt bằng chung trên thế giới và so với các nước trong khu vực ASEAN vẫn còn ở mức tương đối thấp (các nước phát triển có tỷ lệ đô thị hóa trên 80%; Singapore có tỷ lệ 100%; Malaysia, Brunei đạt 75%; Thái Lan đạt 62%). Mặc dù vậy, với dân số đô thị ngày càng tăng nhanh và số lượng đô thị cũng đang tiệm cận con số 1.000 (869 đô thị), Việt Nam đã hình thành được một mạng lưới đô thị trải dài từ Bắc xuống Nam và chạy dọc theo đường bờ biển. Mạng lưới đô thị Việt Nam cũng đã hình thành được những đặc trưng riêng, khác biệt so với các quốc gia hay thành phố khác. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Mạng lưới đô thị Việt Nam đã hình thành được những đặc trưng riêng, khác biệt so với các quốc gia hay thành phố khác.

PV: Ông nhận định như thế nào về thực trạng hệ thống đô thị Việt Nam còn thiếu tính liên kết? Và nguyên nhân của thực trạng này đến từ đâu? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Khái niệm “tính liên kết của đô thị” là một khái niệm rất rộng và bao hàm nhiều nội dung như liên kết về văn hóa, về kinh tế, xã hội, giao thông… Nhìn tổng quan, có thể thấy hệ thống đô thị Việt Nam thiếu sự tương tác, mỗi đô thị còn phát triển theo hướng độc lập và ít có sự hỗ trợ lẫn nhau trong tiến trình tăng trưởng chung. 

Trên thực tế theo nhìn nhận của tôi, đô thị Việt Nam trong quá trình phát triển vẫn còn mang nặng tính địa phương. Trừ hai đô thị đầu tàu là Hà Nội và TP.HCM từ lâu đã hình thành mối liên kết chặt chẽ với các đô thị vệ tinh, các thành phố ở những địa phương khác phát triển khá riêng rẽ và thiếu sự tương tác, liên kết với nhau. 

Bên cạnh đó, điểm hạn chế của đô thị Việt Nam là chủ yếu mở rộng về địa giới hành chính, liên kết về chiều rộng nhưng chưa đủ liên kết về chiều sâu. Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh chủ yếu nhờ vào việc sáp nhập các tỉnh, thành nhỏ, lân cận vào đô thị lớn. Tuy nhiên, bản chất của đô thị hóa không chỉ nằm ở diện tích hay bề rộng mà còn nằm ở chất lượng đời sống đô thị. Có thể thấy rằng chất lượng hay nội lực của đô thị nước ta chưa có nhiều sự chuyển biến rõ rệt, chưa phát triển theo chiều sâu và tương xứng với tốc độ đô thị hóa diễn ra theo chiều ngang. 

Nguyên nhân của thực trạng này đến từ các yếu tố khách quan và chủ quan. Chủ quan là do đô thị Việt Nam phát triển rất nhanh về mặt số lượng và chúng ta vẫn đang trong quá trình hình thành, mở rộng các đô thị mới. Trong giai đoạn này, toàn bộ nguồn lực về kinh tế – xã hội, con người đang được dùng để tập trung xây dựng bản thân đô thị đó. Cho đến nay, có thể nói là chúng ta vẫn đang trên hành trình tìm ra hướng phát triển để nâng cao chất lượng cho từng đô thị, làm thế nào để phát triển kinh tế, quản lý xã hội hay chỉnh trang đô thị sạch, đẹp như câu chuyện gạch lát đá vỉa hè của Hà Nội trong thời gian qua, tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có rất nhiều vấn đề tồn đọng. Do đó, nguồn lực kinh tế – xã hội, con người và cả thời gian để đầu tư cho việc liên kết hệ thống đô thị là chưa có nhiều. 

Nguyên nhân khách quan đến từ việc thiếu quy hoạch và định hướng cụ thể trong cơ chế, chính sách. Chính phủ đã thể hiện vai trò trong việc định hướng tổng quan hình thành và phát triển mạng lưới đô thị, tuy nhiên, chúng ta cần có một hệ thống quản lý và hành lang pháp lý rõ ràng để tạo điều kiện cho các đô thị, các khu vực, các vùng chủ động liên kết, phát huy tiềm năng của mình để xây dựng và phát triển hệ thống đô thị, vùng đô thị hay rộng hơn là mạng lưới đô thị. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Câu chuyện gạch lát đá vỉa hè của Hà Nội trong thời gian qua tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có những vấn đề cần xem xét. (Ảnh: Báo Lao động) 

CẦN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH LÀM NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN

PV: Theo chuyên gia, nên tiếp cận khái niệm “tính liên kết của đô thị” như thế nào để phù hợp với tình hình phát triển của đô thị Việt Nam? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Dưới góc nhìn của một kiến trúc sư và nhà nghiên cứu về quy hoạch, tôi cho rằng nên tiếp cận tính liên kết của đô thị theo hai phương diện là xã hội và kinh tế. 

Về xã hội, khi quá trình đô thị hóa diễn ra, đô thị được hình thành và tiến tới đạt chuẩn các điều kiện cần thiết với những đặc điểm khác biệt hoàn toàn so với nông thôn thì áp lực đặt lên vai người làm chính sách, nhà quy hoạch, nhà quản lý đô thị là vô cùng lớn. Người đứng đầu quản lý đô thị cần làm sao đảm bảo được tất cả điều kiện về môi trường sống như y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, văn hóa, để đảm bảo chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị. Và cũng chính bởi vì chúng ta vẫn đang xoay xở trong câu chuyện xây dựng và quản lý từng đô thị riêng lẻ nên áp lực này càng trở nên nặng nề. Trong khi đó, việc gắn kết các đô thị có thể giảm gánh nặng cho từng khu vực khi mà các thành phố có thể chia sẻ với nhau vai trò xã hội trong bức tranh chung. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
“Nên tiếp cận tính liên kết của đô thị theo hai phương diện là xã hội và kinh tế”. (Ảnh minh họa: Vietnam Plus)

Ví dụ đối với vấn đề nhân lực, khi chúng ta xây dựng một cụm trường đại học và định hướng nguồn nhân lực đầu ra không chỉ phục vụ cho một tỉnh, một thành phố mà sẽ làm việc tại nhiều tỉnh, nhiều thành phố lân cận trong một khu vực rộng lớn thì từ đó sẽ giải quyết được bài toán nhân lực trong các đô thị cùng thuộc một mạng lưới. Sẽ không còn tình trạng thành phố này thừa nhân lực nhưng ngay tỉnh thành lân cận lại thiếu người làm. Hay liên kết chặt chẽ về hạ tầng giao thông có thể giúp giảm gánh nặng về nhà ở với đô thị trung tâm, khi mà người lao động có thể di chuyển nhanh và dễ dàng giữa hai thành phố để sống và làm việc. 

Tương tự, liên kết đô thị trên phương diện kinh tế cũng sẽ giúp cho mỗi thành phố, mỗi khu vực có thể đẩy mạnh khai thác tiềm năng kinh tế của chính mình và kết hợp, thúc đẩy lợi ích kinh tế của các đô thị lân cận để tạo ra một vùng kinh tế vững mạnh.

Ví dụ, về du lịch, ở khu vực miền Trung, chúng ta có Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, mỗi tỉnh, thành phố lại có tiềm năng du lịch, giá trị văn hóa và di sản khác nhau. Việc kết hợp với nhau để tạo ra một cụm điểm đến du lịch hấp dẫn có thể giúp cho các đô thị trong một khu vực có thể cùng thúc đẩy hoạt động du lịch mạnh mẽ hơn, thu hút nhiều vốn đầu tư hơn. Thay vì mỗi thành phố đều tự tìm cách giải quyết bài toán kinh tế của chính mình một cách độc lập, liên kết đô thị sẽ là công cụ để khai thác tiềm năng nhanh, hiệu quả và bền vững. 

Cần phải nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh thế giới hiện nay, các đô thị ngày càng cạnh tranh gay gắt với nhau, không chỉ trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi khu vực, châu lục và toàn cầu. Đô thị Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, do đó còn thiếu những điều kiện về quy mô, chất lượng nếu so sánh với những đô thị khác. Nếu hệ thống đô thị còn chậm liên kết thì chất lượng và tốc độ phát triển đô thị của chúng ta sẽ có nguy cơ thụt lùi so với các quốc gia khác, trước mắt là trong khu vực Đông Nam Á. 

PV: Đối với mô hình mạng lưới đô thị, chúng ta nên tiếp cận và tư duy như thế nào, thưa ông? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Thực tế cho thấy, chúng ta đã hình thành mô hình mạng lưới đô thị ở hai đầu Bắc – Nam là Hà Nội và TP.HCM. Mô hình mạng lưới thể hiện ở việc Hà Nội hay TP.HCM là đô thị trung tâm và là vùng lõi, liên kết với các đô thị vệ tinh xung quanh. Chúng ta cũng đã thấy được hiệu quả của mô hình này khi mà khu vực đô thị trung tâm Bắc – Nam phát triển khá tốt và thu hút dòng vốn đầu tư mạnh mẽ cả trong và ngoài nước. 

Tuy nhiên, so với hai đầu Bắc – Nam thì mạng lưới đô thị ở miền Trung còn khá rời rạc và thiếu tính liên kết, dẫn đến nhiều vấn đề như vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI) chảy khá ít và khá chậm vào khu vực này. Lý do là bởi nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư vào một khu vực nào thì họ đều phải xem xét nhiều vấn đề về quy mô và chất lượng của môi trường đầu tư của khu vực đó. Do sự khác biệt căn bản về địa lý, cơ cấu kinh tế, con người và xã hội, không thể áp dụng một cách rập khuôn mô hình mạng lưới lấy một đô thị làm trung tâm như ở Hà Nội, TP.HCM vào các tỉnh miền Trung hay những khu vực khác mà cần có sự điều chỉnh để phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan của khu vực.

Nghĩa là chúng ta cần có mô hình mạng lưới đô thị tương tự như Hà Nội, TP.HCM nhưng ở nhiều cấp độ khác nhau và phát huy thế mạnh đặc trưng của vùng. Dựa trên tiềm năng riêng của mỗi khu vực, mỗi vùng mà mô hình mạng lưới phải có sự linh hoạt, xây dựng hệ thống quản lý phù hợp để tạo tiền đề cho vùng đó phát triển.

PV: Vậy đâu là giải pháp để tăng cường tính liên kết trong hệ thống đô thị Việt Nam, thưa ông? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Như đã trình bày, thực trạng đô thị nước ta còn thiếu tính liên kết xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trên cơ sở đó, giải pháp khắc phục cũng sẽ được tiếp cận từ góc độ vĩ mô và vi mô. 

Ở cấp độ vĩ mô, vai trò của Chính phủ trong quy hoạch mạng lưới đô thị là vô cùng quan trọng. Khi Chính phủ đã đưa ra quyết sách là phải phát triển đô thị Việt Nam theo mô hình mạng lưới, có sự tương tác qua lại, có tính liên kết chặt chẽ thì kèm theo đó cũng cần có chính sách, cơ chế và hành lang pháp lý làm nền tảng phát triển cho địa phương. Để mỗi khu vực có thể phát huy được tối đa tiềm lực địa phương, Chính phủ cần bổ sung chính sách cụ thể, có sự phân quyền, phân chia chức năng rõ ràng cho từng đô thị, từng khu vực, từng vùng. Từ đó mỗi đô thị có thể phát huy tiềm năng của mình một cách hiệu quả hơn và cũng tránh được hiện tượng địa phương muốn tổ chức liên kết đô thị trong khu vực nhưng không được định hướng cụ thể cách làm và cũng không rõ làm như thế nào là đúng, như thế nào là chưa phù hợp với quy định chung. 

Ở cấp độ vi mô, mỗi địa phương cũng cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân để tăng cường nội lực của đô thị. Bởi một đô thị có nội lực yếu cũng rất khó để liên kết với các đô thị khác và cùng nhau hợp lực tạo nên sức mạnh mà thay vào đó có thể trở thành gánh nặng của những đô thị, khu vực khác, nhất là trong trường hợp đã xây dựng được hành lang pháp lý ràng buộc lẫn nhau giữa các đô thị. Địa phương có vai trò trọng tâm trong việc nâng cao chất lượng môi trường sống đô thị, đảm bảo các điều kiện y tế, văn hóa, giáo dục, giao thông, môi trường phục vụ đời sống cả vật chất và tinh thần cho người dân để thúc đẩy phát triển nội lực của mỗi thành phố.

Kết hợp các điều kiện vĩ mô và vi mô, hệ thống đô thị Việt Nam có thể phát triển bền vững theo mô hình mạng lưới, liên kết mạnh mẽ về cả kinh tế và xã hội, từ đó thể hiện vai trò quan trọng trong thực hiện những mục tiêu tăng trưởng chung của đất nước. 

PV: Trong giai đoạn 5 đến 10 năm tới với bối cảnh kinh tế – xã hội như hiện tại, theo quan điểm của chuyên gia, đâu sẽ là mục tiêu cụ thể quan trọng trong định hướng phát triển mạng lưới đô thị tại Việt Nam? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Đương nhiên, chúng ta không thể chỉ thực hiện một mục tiêu nào đó để đạt được hệ thống đô thị phát triển vững mạnh với mạng lưới liên kết chặt chẽ mà cần kết hợp thực hiện nhiều mục tiêu với cùng một định hướng cụ thể. 

Theo quan điểm của tôi, để phát triển mạng lưới đô thị, trước hết chúng ta cần duy trì, phát huy những thành tựu đã đạt được và đặc biệt tập trung vào liên kết hạ tầng như giao thông, hạ tầng thông tin, hạ tầng kỹ thuật. Hạ tầng là cơ sở, nền tảng và là điều kiện cần để phát triển các lĩnh vực khác, trong khi đó hiện nay chất lượng hạ tầng đô thị và hạ tầng liên kết đô thị, liên kết vùng ở Việt Nam còn không ít hạn chế. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Hạ tầng giao thông vẫn còn là điểm hạn chế tại không ít thành phố của nước ta. (Ảnh minh họa: Vietnam Plus) 

Đơn cử như một số tuyến quốc lộ, có vai trò là tuyến giao thông huyết mạch đi qua địa bàn nhiều tỉnh, hiện nay đang xuống cấp nghiêm trọng như Quốc lộ 1A. Đó cũng chính là một điểm hạn chế, vướng mắc cản trở sự liên kết, tương tác giữa các tỉnh và thành phố. Nếu hạ tầng chưa thể đáp ứng các điều kiện cơ bản về chất lượng và số lượng thì cũng rất khó để các thành phố, khu vực và vùng liên kết với nhau một cách hiệu quả. 

– Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

]]>
Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững https://trithucdoanhnhan.net/de-quy-hoach-do-thi-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-ben-vung/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:48 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3182

Quy hoạch đô thị là nền tảng định hướng, thúc đẩy quá trình đô thị hóa, hài hòa lợi ích kinh tế và môi trường. Song, thực tế công tác quy hoạch đô thị vẫn đang tạo ra một số rào cản cho sự phát triển bền vững.

Ngày 27/1, Văn phòng Chính phủ đưa ra Thông báo số 14/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị Đô thị toàn quốc năm 2022, phổ biến và triển khai Nghị quyết số 148/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thông báo nêu rõ, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW đã đề ra 15 nhóm chỉ tiêu cụ thể hướng tới phát triển đô thị xanh, đảm bảo vệ sinh môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó biến đổi khí hậu, thông minh và phát triển bền vững. Các chỉ tiêu đề ra khá cao, do vậy, để hoàn thành cần có tư duy, cách tiếp cận mới và nỗ lực rất lớn trong thực hiện. 

Một số chuyên gia quy hoạch nhận định, việc quy hoạch đô thị Việt Nam còn phải thay đổi mới đáp ứng được được yêu cầu phát triển bền vững.

Quy hoạch đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

Theo GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng, Nguyên Vụ trưởng, Chủ nhiệm VP thường trực, Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, quy hoạch đô thị ở Việt Nam được lập trên cơ sở của phương pháp quy hoạch tổng thể triển khai từ những năm 1960, khi nước ta còn phát triển với cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung.

“Phương pháp quy hoạch này có khá nhiều hạn chế, như quy hoạch phát triển theo từng ngành riêng biệt và độc lập; chủ yếu dựa vào các đặc điểm của đô thị lý tưởng, thậm chí tách rời sự phát triển thực tế, với quá nhiều luật lệ nhưng việc điều hành không tốt. Ngoài ra, việc tiếp thị đô thị và sự tiếp cận với vốn địa phương cũng như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa hiệu quả”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nêu.

Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng. Ảnh: Tạp chí Kiến trúc

Trong đó, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhấn mạnh, quy hoạch sử dụng đất là nội dung cơ bản trong quy hoạch đô thị, tuy nhiên hiện nay việc quản lý sử dụng đất đô thị còn nhiều bất cập do có sự chồng chéo trong áp dụng hệ thống văn bản pháp luật giữa ngành tài nguyên, môi trường và ngành xây dựng (theo Luật Đất đai và Luật Quy hoạch đô thị); bất cập trong việc phân loại đất đô thị; bất cập trong việc xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất.

“Đơn cử như quy hoạch chung được thực hiện theo phương pháp tổng thể, theo tầm nhìn dài hạn, không xác định được nguồn lực thực hiện nên khả năng thực thi không cao. Nhiều đồ án quy hoạch chung được triển khai rất chi tiết cho giai đoạn dài hạn (như xác định hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng cho từng lô đất ở giai đoạn dài hạn, khoảng 20 năm sau) là khó khả thi, thậm chí là rào cản cho các quy hoạch cấp dưới”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhận định.

Ngoài ra, theo GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng, quy hoạch phân khu được thực hiện với việc quy định cụ thể về chức năng sử dụng đất trên nền tảng hiện trạng và dự án đã có, song quy định về sử dụng đất thiếu linh hoạt dẫn tới việc liên tục phải điều chỉnh cục bộ.

Công tác điều chỉnh quy hoạch đang thường xuyên diễn ra, với các quy mô và mức độ khác nhau ở các loại đồ án quy hoạch đô thị. Việc điều chỉnh này do dự báo phát triển chưa phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của thực tiễn; thông tin số liệu hiện trạng về quy hoạch, đất đai, dự án… không đầy đủ và thiếu hệ thống.

Nêu thực trạng quy hoạch chi tiết tại các địa phương, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng cho biết: “Quy hoạch chi tiết tại nhiều địa phương bị điều chỉnh tùy tiện, không đúng quy trình, thủ tục, thường có xu hướng tăng tầng cao, mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất trong khi giảm diện tích công cộng và cây xanh, điều này dẫn đến việc quá tải lên hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong các khu đô thị”.

Từ thực tế đó, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhấn mạnh, quy hoạch đô thị cần được lập theo hướng đa ngành và hợp nhất trong một hồ sơ quy hoạch, do chủ nhiệm đồ án tổng hợp. Các nội dung này có thể được đề xuất bởi các lĩnh vực chuyên môn, các chuyên ngành khác nhau nhưng không nên có các quy hoạch riêng.

Ngoài ra, quy hoạch cần dựa vào cơ sở thực thi của đô thị và tôn trọng quy luật thị trường, chỉ quy hoạch những cái gì có thể làm được, kể cả tính khả thi về tổ chức không gian và nguồn tài chính thực hiện.

“Trong đồ án quy hoạch chung đô thị không nên quy định những chỉ tiêu cứng nhắc, mà chỉ nên quy định những điều được khuyến khích làm và những điều phải ngăn cấm.

Đối với các quy hoạch phân khu và chi tiết các khu vực cụ thể, cần chọn những hành động cụ thể để thực hiện, căn cứ vào nhu cầu và nguồn lực của các nhà đầu tư phát triển đô thị, cho một thời gian nhất định”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nêu.

Giải pháp quản lý tạm thời các khu đất lớn đang chờ triển khai dự án đô thị hoá

Các chuyên gia đánh giá, thực tế ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và ngay cả ở các đô thị nhỏ hơn, hiện tượng đất đô thị mòn mỏi chờ dự án triển khai vẫn khá phổ biến.

Theo ông Emmanuel Cerise, Giám đốc PRX-Vietnam, hầu hết các đô thị Việt Nam hiện nay đều đang phải đối mặt với một thực trạng lãng phí nguồn lực đất đai khi nhiều quỹ đất đã được giao cho các dự án đô thị lớn, nhưng không được triển khai thực hiện đúng thời hạn vì nhiều lý do khác nhau. Ngoài ra, một số khu vực hoặc công trình nằm ngay bên trong các khu đô thị đã được xây dựng, thậm chí là các công trình lịch sử, cũng rơi vào tình trạng bị lãng phí do các dự án có liên quan chậm triển khai thực hiện.

Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
Ông Emmanuel Cerise, Giám đốc PRX-Vietnam. Ảnh: Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Để giải quyết vấn đề này, ông Emmanuel Cerise chia sẻ kinh nghiệm quy hoạch cho giai đoạn quá độ ở đô thị ở Pháp trong hơn 10 năm qua, đặc biệt ở Vùng Île-de-France, nhằm khai thác tối ưu quỹ đất trong các giai đoạn chờ triển khai dự án chính thức.

“Những khu đất bị bỏ hoang trước đây tại Vùng Île-de-France thường bị đánh giá một cách tiêu cực, nhất là trong bối cảnh thủ đô nước Pháp luôn phải chịu nhiều áp lực lớn về quỹ đất cho phát triển. Vì vậy, việc áp dụng quy hoạch giai đoạn quá độ sẽ thay đổi hình ảnh và giá trị cho các dự án, đồng thời thay đổi cả cách thức phát triển đô thị.

Ngay cả trong trường hợp dự án quy hoạch giai đoạn quá độ không liên quan đến dự án đô thị lâu dài thì ít nhất các nhà quy hoạch cũng tạo được sức sống nhất định và khai thác được các tiềm năng thông thường sẽ bị “đóng băng” trong thời gian chờ thực hiện các nghiên cứu quy hoạch đối với dự án trong tương lai”, Giám đốc PRX-Vietnam nói.

Nhìn nhận về vấn đề này tại Việt Nam, ông Emmanuel Cerise đánh giá, tuy chưa phổ biến nhưng một số thử nghiệm về chuyển đổi công năng đã từng được thực hiện, đặc biệt là với trường hợp khu Zone 9 ở Hà Nội – địa điểm quy tụ các hoạt động văn hóa tại một khu đất công nghiệp bị bỏ hoang tạm thời sau khi thỏa thuận được với chủ sở hữu của địa điểm này.

Giám đốc PRX-Vietnam cũng cho rằng, việc Unesco công nhận Hà Nội thuộc Mạng lưới các thành phố sáng tạo và sự quan tâm của chính quyền thành phố đối với chủ đề này và ngành công nghiệp văn hóa có thể là một phương tiện để phát triển quy hoạch trong giai đoạn quá độ. Còn tại TP. HCM, chủ trương phát triển thành phố thông minh Thủ Đức với các quy định cụ thể cũng có thể là cơ hội cho loại hình quy hoạch này.

Xét trên bình diện rộng hơn, các nỗ lực đổi mới đô thị tại các khu trung tâm hiện có của các đô thị khác như Hải Phòng, Quy Nhơn, Huế… cũng sẽ tạo ra khung thời gian dài để thực hiện các dự án phức tạp.

“Các đô thị Việt Nam nói chung, các đô thị lớn nói riêng hiện nay thiếu không gian công cộng, văn hóa, sân chơi thể thao. Việc sử dụng đất chờ dự án, trong một thời gian dài hoặc thậm chí trong một thời gian tương đối ngắn vài tháng, có thể được khai thác để bù đắp khoảng trống này. Các mô hình khai thác sân bóng mini hiện nay thường đòi hỏi rất ít kinh phí đầu tư và trang thiết bị. Với những địa điểm dành cho sáng tạo nghệ thuật đôi khi cũng không cần đầu tư quá nhiều về cơ sở hạ tầng”, ông Emmanuel Cerise đề xuất./.

]]>