lãi suất ngân hàng – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg lãi suất ngân hàng – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Ứng phó với thời kỳ lãi suất tăng https://trithucdoanhnhan.net/ung-pho-voi-thoi-ky-lai-suat-tang/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:51 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1499

Theo TS. Vũ Đình Ánh, các doanh nghiệp phải xác định rằng thời kỳ tiền tệ giá rẻ đã đi qua, cần tính toán lại các phương án sản xuất kinh doanh, tiếp cận tài chính và hạn chế tối đa sử dụng đòn bẩy…

Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất liên tục trong năm 2022 lên mức 3,75 – 4% không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ, mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu trong đó có Việt Nam.

Theo TS. Vũ Đình Ánh, chuyên gia tài chính, để tránh đồng tiền bị ảnh hưởng cũng như dòng vốn dịch chuyển, gần như tất cả ngân hàng trung ương các nước trên thế giới trong năm 2022 đều tăng lãi suất, Việt Nam cũng có hai lần tăng vào tháng 9 và tháng 10 với mức tăng lên tới 1% ngay cả khi chúng ta không xảy ra hiện tượng lạm phát cao.

Ứng phó với thời kỳ lãi suất tăng
Khi NHNN điều chỉnh lãi suất điều hành đã tác động tới lãi suất huy động và lãi suất cho vay, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp

Khi FED tăng lãi suất thì đồng đô la Mỹ lên giá, có thời điểm chỉ số DXY đạt mức kỷ lục 120 điểm. Trong bối cảnh đó, chúng ta buộc phải tăng lãi suất đồng thời kìm hãm sự mất giá của VND. Như vậy, vừa tăng lãi suất, vừa kiểm soát tín dụng và cung tiền là những ảnh hưởng lớn nhất từ chính sách của FED.

Về chính sách điều hành tiền tệ của NHNN, chúng ta đã quán triệt quan điểm chủ động, linh hoạt, xác định đó là nguyên tắc điều hành mà trong năm 2022 đã thể hiện và tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này.

Nhìn lại thời điểm đầu năm 2022, Việt Nam vẫn duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng để giúp nền kinh tế phục hồi sau giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của Covid-19. Bằng chứng cho thấy chỉ trong 6 – 7 tháng đầu năm, tổng mức tín dụng của chúng ta đã lên tới gần 10% để cung cấp vốn cho nền kinh tế. Đồng thời duy trì lãi suất ở mức thấp kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay cũng như liên quan tới lãi suất điều hành của NHNN.

“Vấn đề nữa là chúng ta vẫn có sự thận trọng nhất định, vừa duy trì ổn định lãi suất, ổn định tỷ giá. Chính điều này đã hỗ trợ rất tích cực cho vấn đề xuất khẩu của Việt Nam khi những tháng cuối năm, xuất khẩu vẫn tăng trưởng hai con số trước bối cảnh thị trường thế giới gặp nhiều khó khăn.

Nhìn chung NHNN đã làm tốt chính sách của mình để giúp ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Dù kinh tế thế giới khó khăn nhưng Việt Nam cũng đã vượt qua được hạn chế do tác động của Covid-19 và dự báo tăng trưởng kinh tế năm nay có thể ở mức 8%”, TS. Vũ Đình Ánh đánh giá.

Tuy nhiên gần đây, khi NHNN điều chỉnh lãi suất điều hành đã tác động tới lãi suất huy động và lãi suất cho vay, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt trong quý IV/2022 xuất hiện tình trạng thiếu thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Theo TS. Ánh, tính đến hết tháng 11/2022, tín dụng đã tăng xấp xỉ khoảng 12% trong tổng tín dụng được phép tăng là 14%, trong khi đó huy động chỉ tăng hơn 5%. Đặc biệt tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng 4 – 5% đã tạo ra khó khăn về mặt vĩ mô cho thanh khoản. Thực tế thời gian vừa qua, khá nhiều ngân hàng đã cho vay gần như đến giới hạn của tỷ lệ huy động trên tỷ lệ cho vay. Do đó, để đảm bảo hoạt động cho vay và tính thanh khoản họ đã có cuộc chạy đua về mặt lãi suất, nhưng Chính phủ cũng đã chỉ đạo hạn chế mức thấp nhất tăng lãi suất cho vay.

Với vấn đề này, trước hết các doanh nghiệp phải xác định rằng thời kỳ tiền tệ giá rẻ đã đi qua, lãi suất ở mức tương đối thấp cộng với việc dễ dàng tiếp cận tín dụng cùng các biện pháp hỗ trợ, kể cả gói hỗ trợ lãi suất 2% trong gói 348.000 tỷ đồng hỗ trợ phục hồi kinh tế cũng đã đang phải đối mặt với khó khăn.

Thứ nhất, các doanh nghiệp phải tính toán lại các phương án, trước hết là với các khoản vay cũ, đưa ra bài toán tài chính sẵn sàng cho việc lãi suất tăng.

Thứ hai, họ phải giảm bớt các đòn bẩy tài chính. Ở đây không chỉ liên quan đến giá vốn tăng thông qua lãi suất, mà còn liên quan đến khả năng tiếp cận tín dụng của rất nhiều doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn so với giai đoạn trước.

Thứ ba, khi biến số về lãi suất đã tăng, thậm chí có thể sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới thì các phương án để vay vốn liên quan đến sản xuất kinh doanh cần phải lường trước, để có bài toán hợp lý trong việc huy động nguồn vốn tín dụng.

Riêng với việc huy động nguồn lực khác ngoài vốn tín dụng giúp các doanh nghiệp khắc phục tình trạng tăng chi phí tài chính, chi phí đầu vào đặc biệt chi phí tài chính đối với giá đầu ra có thể khiến lợi nhuận bị thu hẹp, thậm chí trong một số trường hợp có thể lâm vào tình trạng thua lỗ. Vì vậy tôi khuyến nghị các doanh nghiệp cần hết sức thận trọng với đòn bẩy tài chính trong giai đoạn này.

Có thể thấy, giảm lãi suất cho vay là mong mỏi không chỉ của doanh nghiệp, mà cả ngân hàng. Lãi suất cho vay cao sẽ khiến nợ xấu tăng, doanh nghiệp dừng các kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh, nền kinh tế đình trệ… Ngân hàng cũng khó tránh khỏi vòng xoáy tiêu cực này.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV khuyến nghị: “Chúng ta cần phải cân bằng lãi suất và tỷ giá. Năm 2022, nhằm kiểm soát tỷ giá, NHNN đã phải tăng lãi suất. Song nếu lãi suất tăng mạnh quá, doanh nghiệp sẽ không thể chịu đựng được. Chúng tôi đã có tính toán sơ bộ và thấy rằng, chúng ta cần phải hết sức thận trọng với công cụ lãi suất thời gian tới. Năm 2023, chúng ta có thể chấp nhận tiền đồng mất giá nhiều hơn một chút, song cần hết sức cân nhắc chuyện tăng lãi suất. Điều tích cực là áp lực tỷ giá năm tới đã nhẹ đi đáng kể”.

]]>
Tháo gỡ cho gói hỗ trợ lãi suất 2% https://trithucdoanhnhan.net/thao-go-cho-goi-ho-tro-lai-suat-2/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:09 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2692

Gói hỗ trợ lãi suất 2% đặt nặng vấn đề hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khiến các bên liên quan đều e ngại khi tiếp cận.

Quy định quá chặt chẽ, các bên đều e ngại

NHNN vừa có Tờ trình số 151/TTr-NHNN về việc triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất từ ngân sách nhà nước theo quy định tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN. Tờ trình nêu rõ, từ khi ban hành chính sách, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ với tinh thần quyết liệt và khẩn trương. Tuy nhiên kết quả hỗ trợ lãi suất còn thấp, chưa như kỳ vọng là do một số vướng mắc đã được nhận diện trong quá trình NHNN và các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng khảo sát thực tế tại địa phương.

Số liệu tập hợp từ các NHTM cho thấy, trong số khách hàng thuộc ngành, lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất và đáp ứng điều kiện được hỗ trợ lãi suất, có khoảng 67% khách hàng phản hồi không có nhu cầu. Thậm chí, một số khách hàng đã nhận hỗ trợ lãi suất, song chủ động hoàn trả NHTM toàn bộ số tiền lãi được hỗ trợ. Trong đó, lý do lớn nhất là tâm lý e ngại đối với các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Một trong các vướng mắc lớn nhất liên quan đến quy định “có khả năng phục hồi” tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 31/2022/NĐ-CP.

Quy định quá chặt chẽ, các bên đều e ngại
NHTM không thể “đánh giá khả năng phục hồi” của khách hàng mà chỉ có thể đánh giá “có đủ điều kiện cho vay hay không”.

Qua báo cáo và khảo sát thực tế từ các NHTM và khách hàng, bản thân khách hàng mặc dù có khả năng trả nợ, song cũng không dám khẳng định “có khả năng phục hồi”. Vì hiện nay các tiêu chí để đánh giá khả năng phục hồi thường là những kết quả định lượng như doanh thu, sản lượng, lợi nhuận kinh doanh phải tăng; hoặc các tiêu chí định tính như diễn biến, chiều hướng, triển vọng kinh doanh của khách hàng… Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, các tiêu chí này là rất khó đánh giá, đặc biệt điều kiện kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn, chi phí sản xuất gia tăng và phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các loại nguyên liệu đầu vào, áp lực lạm phát…

Trao đổi với phóng viên, Giám đốc một doanh nghiệp dệt may cho hay, trong giai đoạn dịch căng thẳng năm 2021 và hai quý đầu năm 2022, đơn vị này thậm chí còn đạt doanh thu cao hơn so với thời điểm hiện tại. Mặc dù vẫn đang có đơn hàng cho tới hết quý I/2023 song cũng rất cầm chừng để giữ mối. Vì vậy, mặc dù được ngân hàng thông báo đủ điều kiện tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2%, doanh nghiệp này cũng không mặn mà vì lo ngại không thể chứng minh được khả năng phục hồi trong thời gian tới. “Với kế hoạch kinh doanh trong quý I tới đây, chúng tôi tự tin có thể trả các khoản vay ngân hàng, còn nếu yêu cầu chứng minh khả năng phục hồi để được giảm lãi suất 2% thì thực sự rất khó, tôi không dám chắc”, vị lãnh đạo doanh nghiệp dệt may này cho biết thêm.

Đánh giá về gói hỗ trợ lãi suất 2% bà Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) nhìn nhận, việc hướng dẫn còn chung chung nên doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian để làm thủ tục. Ngoài ra, khi tiếp cận chính sách, doanh nghiệp luôn muốn tuân thủ pháp luật. Song do các khâu thực hiện có thể xuất hiện sai sót ngoài mong muốn, khiến họ sợ bị truy cứu trách nhiệm.

“Để gỡ điểm nghẽn, cơ quan quản lý nên tập trung hướng dẫn doanh nghiệp làm thế nào cho đúng, thay vì coi họ là đối tượng vi phạm pháp luật. Được như vậy, doanh nghiệp vừa dễ dàng tiếp cận gói hỗ trợ và NHTM cũng tự tin hơn khi triển khai cấp vốn”, bà Thảo nói.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) lại so sánh chính sách hỗ trợ lãi suất với chính sách giảm thuế VAT 2%. Theo ông Tuấn, chính sách giảm thuế được triển khai nhanh do tất cả các bên đều hưởng lợi, đồng thời không làm phát sinh bộ máy thực thi, không lo hậu kiểm. Trong khi đó, “gói hỗ trợ lãi suất 2% không tạo nên động lực thực thi, bởi nguy cơ cao nhưng lợi ích rất nhỏ. Do đó, các NHTM và cả người vay đều không mặn mà”, ông Tuấn đánh giá.

Các quy định cho vay hiện hành đã đủ chặt chẽ

Các chuyên gia ngân hàng đánh giá, sau khi Nghị định 31 ra đời, NHNN đã khẩn trương triển khai bằng việc sớm ban hành Thông tư số 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn các NHTM thực hiện. Tuy nhiên trong thẩm quyền của mình, NHNN chỉ có thể hướng dẫn các vấn đề về kỹ thuật nội bộ ngành Ngân hàng như phương thức giảm trừ số tiền hỗ trợ lãi suất cho khách hàng, quản lý hạn mức hỗ trợ lãi suất, hạch toán, kế toán…

Bởi lẽ, theo khoản 4 Điều 3 Nghị định 31 quy định: Khách hàng có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi theo đánh giá nội bộ của NHTM, sử dụng vốn vay được hỗ trợ lãi suất đúng mục đích, có trách nhiệm trong việc phối hợp với NHTM thực hiện hỗ trợ lãi suất.

Nhưng thực tế các NHTM cho biết họ không thể “đánh giá khả năng phục hồi” của khách hàng mà chỉ có thể đánh giá “có đủ điều kiện cho vay hay không”. Chính phủ cũng không giao NHNN hướng dẫn tiêu chí này. Do đó, việc tháo gỡ vướng mắc về tiêu chí “có khả năng phục hồi” cần được thực hiện thông qua sửa đổi, bổ sung Nghị định 31 của Chính phủ.

Hiện tại, NHNN đã rà soát, đề xuất nội dung sửa đổi Nghị định 31 và đang lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định. Trong đó, NHNN đề xuất cần hướng dẫn quy định “có khả năng phục hồi” nghĩa là “đáp ứng điều kiện cho vay”, thay vì các tiêu chí cụ thể khác. Như vậy, NHTM và khách hàng không cần xem xét các tiêu chí khác mà chỉ cần đáp ứng các quy định hiện hành về điều kiện cho vay của TCTD đối với khách hàng.

Tổng Giám đốc một NHTMCP chia sẻ, nguồn vốn cho vay do TCTD tự huy động trên thị trường và phải chịu trách nhiệm chi trả đầy đủ, đúng hạn, vì vậy các TCTD ý thức rõ hơn ai hết về việc phải cho vay đúng đối tượng, đúng mục đích. “Tôi cho rằng các tiêu chí chỉ cần bám sát vào quy định hiện hành về điều kiện cho vay của TCTD vì bộ tiêu chí đã được xây dựng đầy đủ và chuyên nghiệp. Hơn nữa việc cho vay là hoạt động thường xuyên của NHTM, do vậy các NHTM không phải thành lập tổ chức hoặc bộ phận mới để thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 2%”, vị này nhấn mạnh.

Căn cứ các kiến nghị của địa phương, doanh nghiệp trong thời gian qua, NHNN cũng trình Chính phủ chấp thuận mở rộng đối tượng được hỗ trợ lãi suất, cụ thể nhằm vào một số đối tượng như: người mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có giá phù hợp, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thu mua, tạm trữ lương thực, nông, lâm, thuỷ sản, kinh doanh xăng dầu…

Một phương án khác là trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép điều chuyển phần dự toán không sử dụng hết của chương trình này sang các nhiệm vụ chi/các hình thức hỗ trợ khác. Ví dụ các chương trình cho vay hỗ trợ khôi phục kinh tế thông qua NHCSXH, trong đó có chương trình cho vay giải quyết việc làm hiện đang giải ngân rất tốt và nguồn vốn này sẽ được thu hồi khi các khoản vay đến hạn trả./.

]]>
Thu xếp kênh dẫn vốn, tăng nguồn lực cho doanh nghiệp https://trithucdoanhnhan.net/thu-xep-kenh-dan-von-tang-nguon-luc-cho-doanh-nghiep/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:00 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2903

Năm 2023, Việt Nam cần sớm có thay đổi chính sách để đáp ứng nhu cầu về vốn, thì doanh nghiệp mới thu xếp được nguồn lực một cách an toàn, ổn định phục vụ tăng trưởng.

Áp lực gia tăng

Năm 2022 vừa qua có rất nhiều khó khăn, đột biến đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, chúng ta đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ với mức 8,02% và điểm sáng lớn là lạm phát chỉ ở mức 3,15%, đi ngược lại trào lưu của thế giới là lạm phát rất cao, bình quân khoảng 8,5%.

Áp lực gia tăng
Trong thời gian qua đã có những khó khăn về việc thu hút vốn của hệ thống ngân hàng, nên các ngân hàng thương mại phải chạy đua lãi suất đầu vào

Tuy nhiên, cuối năm 2022 là giai đoạn rất nhiều doanh nghiệp bị giảm đơn hàng bởi các dự đoán về nền kinh tế năm 2023 không mấy tươi sáng. Lạm phát của thế giới  vẫn sẽ cao mặc dù đã qua đỉnh điểm, các chuyên gia trên thế giới đều cho rằng lạm phát có thể đạt mức 6,5% và tăng trưởng của thế giới sẽ chậm lại so với những dự báo trước đây, chỉ khoảng 2,2 – 2,5%.

Có thể thấy, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào xuất nhập khẩu với tỷ trọng trên GDP khoảng gần 200%, vì thế khi thế giới giảm mức tiêu thụ hàng hóa thì rõ ràng khả năng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm đi, dẫn đến tăng trưởng chậm lại.

Cùng với đó, bối cảnh lạm phát của thế giới cao trong khi Việt Nam phải nhập khẩu 40% nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho sản xuất, thì chúng ta cũng sẽ nhập khẩu lạm phát, gây sức ép lớn trong khi xuất khẩu giảm sút. Từ đó làm cho sản xuất chậm lại, công ăn việc làm bị thắt chặt, thậm chí có một chuỗi dây chuyền tác động không tốt đến nền kinh tế, nếu không nỗ lực vượt qua khó khăn này để đáp ứng được khả năng tăng trưởng trong năm mới.

Khơi thông kênh dẫn vốn

Về kinh tế của Việt Nam trong năm tới, câu chuyện chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ vẫn là một trong những vấn đề phải bàn tới rất nhiều, để kiểm soát lạm phát và đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Trong đó, áp lực lãi suất cũng sẽ gây ra ảnh hưởng không nhỏ.

Khơi thông kênh dẫn vốn
Bên cạnh kênh tín dụng ngân hàng, vẫn cần có sự hợp tác khác nữa, nhất là qua thị trường chứng khoán, kênh trái phiếu doanh nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp thu xếp nguồn vốn trong trung – dài hạn.

Nhìn lại năm 2022, có khoảng hơn 340 lần ngân hàng trung ương các nước trên thế giới tăng lãi suất, vì thế Việt Nam cũng bắt buộc phải tăng lãi suất để đảm bảo cạnh tranh đầu tư, cũng như so sánh lãi suất giữa các quốc gia nhằm giảm bớt áp lực về tỷ giá và lạm phát. Chúng ta đều đã nhìn thấy công tác điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước rất khôn khéo, nhanh nhẹn, có can thiệp để giữ vững ổn định tỷ giá.

Có những thời điểm VND giảm giá mạnh so với đồng USD đến trên 8%, nhưng thời điểm cuối năm 2022, mức độ giảm giá chỉ 2,09% và đến ngày 5/1 con số này chỉ còn 1,8%. Điều này đã tạo ra sự yên tâm cho các doanh nghiệp, hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cũng như tăng trưởng. Chúng tôi cho rằng, việc giữ vững tỷ giá sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho xuất khẩu, vì 73% hợp đồng xuất khẩu của Việt Nam sử dụng đồng USD.

Riêng về lãi suất, trong thời gian qua đã có những khó khăn về việc thu hút vốn của hệ thống ngân hàng, nên các ngân hàng thương mại phải chạy đua lãi suất đầu vào. Tuy nhiên với mức lạm phát tương đối thấp thì Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng đã yêu cầu và các ngân hàng đi đến thống nhất lãi suất huy động không quá 9,5% để kéo lãi suất cho vay giảm xuống. Trên thực tế, lãi suất cho vay hiện đã giảm từ 0,5 – 1%, vì thế việc cung vốn cho nền kinh tế bằng kênh tín dụng là tương đối khả quan.

Song, chúng tôi đánh giá việc đó vẫn chưa phải điều chắc chắn, nên vẫn cần có sự hợp tác khác nữa, nhất là qua thị trường chứng khoán, kênh trái phiếu doanh nghiệp. Cần thiết phải có thay đổi để đáp ứng nhu cầu về vốn thì doanh nghiệp mới thu xếp được nguồn lực một cách an toàn, ổn định phục vụ tăng trưởng.

Đối với thị trường chứng khoán trong năm 2022, giai đoạn đầu năm tương đối ổn nhưng sau đó thị trường sụt giảm đến hơn 33% và phục hồi rất chậm. Nhưng trong năm 2022 chúng ta đã có việc cơ cấu lại thị trường bằng việc thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam gồm hai Sở giao dịch TP.HCM và Hà Nội; đồng thời thành lập trung tâm Lưu ký Chứng khoán, cũng như hạ thời gian thanh toán chứng khoán xuống 2 ngày. Từ đó chúng ta đã rà soát, tổ chức lại cơ cấu, bộ máy cũng như cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán, làm cho cơ chế chính sách của nhà nước phù hợp với thực tế, công khai hơn, minh bạch hơn, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, nhưng đồng thời cũng giảm thiểu tối đa các hoạt động của những người thao túng trên thị trường. Vì vậy, hy vọng ngay trong quý I/2023 này, thị trường chứng khoán có thể quay trở lại sự hồi phục và tăng trưởng rõ rệt hơn.

Ở kênh trái phiếu doanh nghiệp, Bộ Tài chính được Chính phủ giao điều chỉnh Nghị định 65 vừa ban hành ngày 12/9/2023 hỗ trợ thị trường này quay trở lại hoạt động,  phù hợp với thực tiễn để các doanh nghiệp có thể phát hành được trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, cung cấp vốn cho sản xuất trung – dài hạn tốt hơn.

]]>
Lãi suất “hạ nhiệt” https://trithucdoanhnhan.net/lai-suat-ha-nhiet/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:59 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2913

Những ngày đầu năm 2023, các nhà băng đã áp dụng biểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm mới với xu hướng có phần giảm nhiệt hơn so với thời gian trước.

Cụ thể, tại VietCapital Bank, biểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm cho khách hàng cá nhân được ghi nhận giảm tại hầu hết kỳ hạn, nằm trong khoảng 6 – 9%/năm, áp dụng cho tiền gửi kỳ hạn 1 – 60 tháng, hình thức lĩnh lãi cuối kỳ. So với tháng 12/2022, lãi suất kỳ hạn 7 tháng và 8 tháng được điều chỉnh giảm lần lượt 0,2 điểm % và 0,4 điểm %, được niêm yết cùng mức là 8,4%. Đồng thời, nhà băng này cũng triển khai mức giảm 0,4 điểm % với lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 9 tháng và 0,5 điểm % với các kỳ hạn 10-11 tháng về mức 8,6%/năm.

Sau thời gian liên tục tăng, bước sang đầu năm 2023, lãi suất huy động tiền gửi tại DongA Bank cũng đã điều chỉnh giảm tại nhiều kỳ hạn. Khảo sát cho thấy, lãi suất áp dụng cho khách hàng cá nhân có khoản tiền gửi lĩnh lãi cuối kỳ tại kỳ hạn 1 – 36 tháng nằm trong khoảng từ 6%/năm đến 9,5%/năm. So với tháng trước, ngân hàng này đã giảm 0,25 – 0,35% tại các kỳ hạn 13 – 36 tháng và giữ nguyên ở các kỳ hạn còn lại.

Lãi suất “hạ nhiệt”
Ảnh minh họa

Tại các ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank, Agribank, theo ghi nhận, lãi suất huy động trong những ngày đầu tiên của năm mới 2023 vẫn ổn định so với trước nghỉ lễ. Theo đó, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cho các kỳ hạn từ 6, 9, 12, 24 tháng dao động từ 6,0-7,4%/năm. Hiện tại, mức lãi suất huy động cao nhất được các ngân hàng này niêm yết là 7,4%/năm.

Có thể thấy, trong tháng cuối năm 2022 và những ngày đầu năm 2023, mặt bằng lãi suất đã giảm nhiệt sau lời kêu gọi giảm lãi suất của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. Theo đó, các ngân hàng đã thống nhất áp dụng mức lãi suất huy động tại các kỳ hạn tối đa 9,5%/năm (bao gồm các khoản khuyến mại cộng lãi suất), cùng với đó, các ngân hàng cũng cam kết giảm lãi suất cho vay từ 0,5 – 2%/năm để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nắm bắt tốt hơn các cơ hội kinh doanh.

Các chuyên gia của CTCK Rồng Việt (VDSC) dự báo, bước sang năm 2023, “cơn lốc” tăng lãi suất của các NHTW toàn cầu được kỳ vọng sẽ tạm lắng, với triển vọng các bước tăng thấp hơn và mức độ dự đoán tốt hơn. Trên cơ sở định hướng kiềm giữ đà tăng lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, VDSC dự báo NHNN sẽ không tăng lãi suất điều hành trong năm 2023. Còn ở góc độ các NHTM, VDSC dự báo lãi suất huy động sẽ tiếp tục có sự phân hóa do cạnh tranh lãi suất giữa các NHTMCP để giải quyết vấn đề thanh khoản; cạnh tranh thu hút tiền gửi trong bối cảnh dòng tiền nhàn rỗi đang dịch chuyển và người gửi tiền đã quan tâm nhiều hơn đến thương hiệu ngân hàng nên chấp nhận gửi nơi có lãi suất thấp hơn để hạn chế rủi ro.

“Tiền gửi khu vực dân cư phục hồi trong năm 2023 nhờ bong bóng đầu cơ đất đai xẹp; kênh đầu tư vàng, USD hạ nhiệt; thị trường tài sản (trái phiếu, cổ phiếu) giảm tính hấp dẫn do nhà đầu tư cân đối lại kỳ vọng lợi nhuận/rủi ro”, VDSC kỳ vọng.

Cũng có góc nhìn tích cực, một chuyên gia ngân hàng cho rằng, xu hướng lãi suất sẽ dần hạ nhiệt. Các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh có cơ hội tiếp cận nguồn vốn với lãi suất tốt từ quý II/2023 trở đi. Tính đến thời điểm này, nhiều ngân hàng thông báo hạ lãi suất huy động từ 1 – 2,5%/năm so với trước.

Các chuyên gia kỳ vọng, làn sóng giảm lãi suất huy động sẽ tiếp tục lan toả tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong thời gian tới. Đối với lãi suất cho vay, Vietcombank trở thành ngân hàng đầu tiên cam kết giảm lãi suất cho vay ngay ngày đầu năm 2023. Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Thanh Tùng – Phó Tổng Giám đốc phụ trách Ban điều hành Vietcombank cho biết, ngân hàng cam kết sẽ giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay đối với tất cả khách hàng có dư nợ hiện hữu và dư nợ phát sinh. Thời gian áp dụng từ ngày 1/1 đến hết 30/4/2023…

Trong năm 2023, nhiều dự báo cho rằng kinh tế toàn cầu có khả năng đi vào suy thoái. Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất và dự kiến duy trì chính sách lãi cao đến cuối năm 2024. Như vậy, áp lực lạm phát tăng vẫn lớn, mặt bằng lãi suất cao còn tiếp tục duy trì, xu hướng dịch chuyển dòng vốn trên toàn cầu còn cao.

Trong bối cảnh lãi suất quốc tế còn tăng, Việt Nam khó đi ngược xu hướng chung. Do đó, NHNN sẽ phải nỗ lực hơn nữa để duy trì ổn định mặt bằng lãi suất thị trường. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt của ngành Ngân hàng thời gian tới, nhất là khi lạm phát lõi có dấu hiệu tăng.

Phát biểu kết luận Hội nghị triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng năm 2023, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cũng đã chỉ đạo các TCTD rà soát, tiết giảm chi phí để chủ động giảm lãi suất cho vay, chia sẻ, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, các TCTD cũng phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận tín dụng ngân hàng, hướng đồng vốn vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa…); tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro./.

]]>
Lãi suất điều hành và xu hướng tỷ giá năm 2023 sẽ ra sao? https://trithucdoanhnhan.net/lai-suat-dieu-hanh-va-xu-huong-ty-gia-nam-2023-se-ra-sao/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:58 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2936

Các dự báo đưa ra từ các tổ chức kinh tế – tài chính, khả năng lãi suất điều hành sẽ được Ngân hàng Nhà nước tăng thêm trong nửa đầu năm 2023 và tỷ giá sẽ giảm nhiệt.

Chu kỳ tăng lãi suất sẽ tiếp tục nửa đầu 2023

Standard Chartered dự báo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ tăng lãi suất thêm 100 điểm cơ bản vào quý I/2023, sau đó giữ nguyên đến cuối 2024 nhằm duy trì sự ổn định.

Cụ thể, trong báo cáo mới công bố, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,2% trong năm 2023 và 6,7% trong năm 2024, tiếp nối đà hồi phục tăng trưởng 8% của năm 2022.

“Chúng tôi vẫn tin vào tiềm năng phát triển mạnh mẽ của Việt Nam trong trung hạn”, ông Tim Leelahaphan, chuyên gia kinh tế phụ trách Thái Lan và Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered, chia sẻ.

Các chỉ số vĩ mô tuy có chậm lại trong quý IV/2022, song vẫn duy trì mạnh mẽ. Doanh số bán lẻ tăng trưởng tốt trong nửa cuối năm 2022 cho thấy sự cải thiện của hoạt động trong nước. 

Theo các chuyên gia Standard Chartered, cán cân thương mai có thể được cải thiện; xuất khẩu có thể sẽ đối mặt với các thách thức toàn cầu; nhập khẩu có nguy cơ giảm. Vốn FDI giải ngân tiếp tục tăng, nhưng triển vọng sẽ phụ thuộc vào nền kinh tế toàn cầu. Lạm phát có thể là mối đe dọa đối với sự phục hồi liên tục của Việt Nam.

Còn các chuyên gia của HSBC đưa ra nhận định, lạm phát lõi tăng, giá nguyên liệu thô cũng tăng, chu kỳ tăng lãi suất sẽ còn tiếp tục. HSBC dự báo NHNN sẽ nâng lãi suất tái cấp vốn 50 điểm cơ sở trong quý I/2023 và quý II/2023, nâng lãi suất tái cấp vốn lên 7% vào giữa năm 2023.

Trong báo cáo vừa công bố mới đây, HSBC cho biết trong khi lạm phát chính của năm đã tương đối thấp ở mức 3,2%, Việt Nam tiếp tục chứng kiến áp lực lạm phát mạnh lên. Tháng 12 là tháng thứ ba liên tiếp lạm phát vượt mức trần 4% của NHNN Việt Nam.

“Không chỉ lạm phát cơ bản tăng lên 5% so với cùng kỳ năm trước mà Việt Nam còn chứng kiến giá nguyên liệu thô tăng lên. Điều này có nghĩa là NHNN nhiều khả năng sẽ tiếp tục chu kỳ thắt chặt”, HSBC cho biết. Là ngân hàng trung ương cuối cùng ở ASEAN có động thái điều chỉnh, NHNN Việt Nam đã chủ động bắt kịp xu hướng chung, tăng lãi suất 200 điểm cơ sở trong năm 2022.

Trong khi HSBC kỳ vọng, NHNN thắt chặt tiền tệ chậm lại khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) được dự báo sẽ giảm tốc và biến động ngoại tệ được xoa dịu, chu kỳ tăng lãi suất sẽ còn tiếp tục. Khối phân tích HSBC dự báo, NHNN sẽ nâng lãi suất tái cấp vốn 50 điểm cơ sở trong quý I/2023 và quý II/2023, nâng lãi suất tái cấp vốn lên 7% vào giữa năm 2023.

UOB dự báo, khả năng NHNN thực hiện một đợt tăng lãi suất 100 điểm cơ bản khác vào đầu năm 2023 và có thể tạm ngừng từ đó, phù hợp với quan điểm của UOB về quỹ đạo chính sách của Fed.

Tỷ giá sẽ bớt áp lực trong năm nay

VND đã chịu áp lực giảm giá lớn trước USD mạnh, khiến tài khoản vãng lai suy yếu và làm suy giảm lợi thế về chênh lệch lợi suất. Để bảo vệ đồng nội tệ, các nhà chức trách đã bán bớt ngoại tệ dự trữ, dự trữ ngoại tệ vốn đã giảm mạnh 20% tính tới quý III/2022 so với thời điểm đạt đỉnh vào cuối năm 2021.

Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá đồng USD gần đây cùng với thanh khoản USD được cải thiện đã giúp đồng VND bớt áp lực hơn một chút. Mặc dù vậy, HSBC nhận định việc tăng giá đồng VND nhiều khả năng sẽ là một quá trình từ từ từng bước một.

Tỷ giá sẽ bớt áp lực trong năm nay

Standard Chartered đưa ra nhận định, lạm phát được dự đoán sẽ tăng trong suốt cả năm 2023, đạt khoảng 6% vào những tháng cuối năm và trung bình 5,5% trong cả năm 2023 và 2024 (so với mức 3,2% năm 2022). Thâm hụt tài khóa của Việt Nam có thể kéo dài và là nguồn gốc của lạm phát.

VND đã phục hồi mạnh trong những tuần gần đây, tuy nhiên, tốc độ tăng giá của VND có thể sẽ chậm lại do ảnh hưởng của nhiều khó khăn còn hiện hữu. Việc bổ sung dự trữ ngoại hối có thể sẽ là ưu tiên chính của Ngân hàng Nhà nước.

Sự cải thiện của cán cân vãng lai và sự phục hồi du lịch có thể sẽ hỗ trợ cho VND. Tỷ giá USD-VND được dự báo đạt 23.400 vào cuối năm 2023 và 23.000 vào cuối năm 2024. 

“NHNN sẽ tiếp tục thận trọng với lạm phát, sự suy yếu của đồng Việt Nam (VND) và rủi ro bất ổn tài chính phát sinh từ các khoản cho vay rủi ro trong lĩnh vực bất động sản. NHNN có thể ưu tiên giữ ổn định VND, miễn là nó không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh thương mại”, ông Tim Leelahaphan, chuyên gia kinh tế phụ trách Thái Lan và Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered cho biết thêm.

Theo UOB, sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2022 cho thấy sự bền bỉ cùng với khả năng phục hồi của Việt Nam sau những thiệt hại do đại dịch COVID-19 gây ra, đặc biệt là vào cuối năm 2021, phần lớn nhờ vào các lĩnh vực kinh tế đa dạng trong ngành sản xuất và dịch vụ.

Tuy nhiên, sự phục hồi mạnh mẽ khó có thể bền vững và động lực tăng trưởng về tổng thể có thể sẽ suy giảm hơn nữa vào năm 2023, do việc thắt chặt chính sách tiền tệ từ các ngân hàng trung ương lớn ảnh hưởng đến nhu cầu bên ngoài, đặc biệt là từ Hoa Kỳ và châu Âu, chiếm 41% tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam.

“Thêm vào đó, NHNN cũng đã thắt chặt chính sách trước áp lực lạm phát và đồng VND suy yếu, mặc dù nhu cầu trong nước có thể sẽ dẫn dắt tăng trưởng vào năm 2023 với thu nhập gia tăng và triển vọng kinh doanh được cải thiện. Do đó, chúng tôi giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 ở mức 6,6%, phù hợp với dự báo chính thức là 6,5%”, báo cáo của UOB nhận định.

Với tỷ lệ lạm phát có khả năng duy trì ổn định, đặc biệt là trong nửa đầu năm 2023, UOB nhận định, NHNN dự kiến ​​sẽ cân bằng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, đồng thời duy trì sự ổn định giá cả và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

Cuối tháng 12, NHNN cho biết sẽ điều hành chính sách tiền tệ “một cách linh hoạt” để giữ lạm phát ở mức 4,5% vào năm 2023, nhằm “ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng”.

Được biết, trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11, NHNN đã thực hiện một loạt chính sách điều hành trước sự quyết liệt của Fed, sức mạnh của đồng USD và áp lực lạm phát.

Cụ thể, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản thêm 100 điểm cơ bản vào ngày 22/9, sau đó ngày 24/10 tiếp tục tăng 100 điểm cơ bản. Giữa 2 kỳ tăng lãi suất này, vào ngày 17/10, NHNN đã công bố mở rộng biên độ giao dịch USD/VND từ +/-3% lên +/-5%, để cho phép VND linh hoạt hơn trong bối cảnh đồng USD mạnh lên.

Cũng trong diễn biến có liên quan, đồng Việt Nam đã tăng trở lại từ mức 24.500 đồng/USD hồi đầu tháng 12/2022 lên mức hiện tại khoảng 23.630 đồng/USD.

Động thái này trùng hợp với sự phục hồi của đồng CNY khi Trung Quốc nới lỏng các biện pháp kiềm chế COVID-19 và bắt đầu mở cửa trở lại nền kinh tế từ đầu năm 2023. Cùng với việc Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, UOB cho rằng, không có gì ngạc nhiên khi VND có mối tương quan chặt chẽ với CNY.

UOB dự báo, đà tăng của USD/VND sẽ đạt mức 25.200 trong quý I/2023, 25.400 trong quý II/2023, 25.600 trong quý III/2023 và 25.800 trong quý IV/2023./. 

]]>
Muốn hạ lãi suất, phải chờ tháo nghẽn thanh khoản https://trithucdoanhnhan.net/muon-ha-lai-suat-phai-cho-thao-nghen-thanh-khoan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:46 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3209

Tuần này, gần như chắc chắn, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm. Trong nước, việc hạ nhiệt lãi suất phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung tiền và thanh khoản hệ thống.

Fed hạ tốc độ tăng lãi suất, sức nóng tiền gửi vẫn chưa hạ nhiệt

Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) – cơ quan hoạch định chính sách của Fed đang tổ chức phiên họp chính sách, thảo luận về vấn đề lãi suất (cuộc họp diễn ra ngày 31/1 và 1/2/2023). Quyết định tăng lãi suất sẽ được công bố vào sáng mai (2/2 – giờ Việt Nam).

Theo nhận định của giới chuyên gia, có tới 99% khả năng Fed sẽ đưa ra quyết định tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm tại phiên họp lần này. Năm 2022, Fed đã tăng lãi suất 7 lần để đối phó với lạm phát tăng phi mã, làm dấy lên lo ngại nguy cơ suy thoái. Bước tăng lãi suất nhỏ hơn sẽ giúp Fed có thêm thời gian đánh giá tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ với nền kinh tế. 

Ngoài sức ép tăng lãi suất từ Fed, lãi suất trong nước còn tiếp tục nóng do các yếu tố nội tại, chủ yếu là do cung tiền năm 2022 giảm và thanh khoản nền kinh tế bị nghẽn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp bị đóng băng…

Sau Tết Nguyên đán, lãi suất tiền gửi trên thị trường tiếp tục duy trì ở mức cao và có sự phân hóa mạnh mẽ. Theo đó, khối ngân hàng thương mại có vốn nhà nước vẫn duy trì được mức lãi suất huy động 7,4%/năm kỳ hạn 12 tháng, trong khi các ngân hàng cổ phần nhỏ có thể đẩy lãi suất tiền gửi lên tới 11 – 12%/năm cùng kỳ hạn (mức lãi suất thỏa thuận này chỉ áp dụng với các khoản tiền gửi lớn).

Theo FiinGroup, Fed có thể tăng lãi suất điều hành lên mức 5% năm nay và duy trì mức này đến hết năm 2023, đồng thời với việc giảm quy mô bảng cân đối. Ở trong nước, thanh khoản thị trường chưa thể sớm cải thiện do ách tắc về giải ngân vốn đầu tư công, thiếu vắng các biện pháp mang tính hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản. Với tác động kép của cả thị trường trong nước và thế giới, các chuyên gia phân tích của Fiin Group cho rằng, lãi suất trong nước chưa thể giảm ít nhất trong 6 – 12 tháng tới.

“Với dự báo này, chúng tôi cho rằng, mặt bằng lãi suất trong nước khó có thể giảm trước năm 2024, đặc biệt khi điểm nghẽn về thanh khoản hiện vẫn chưa được xử lý”, báo cáo nhấn mạnh.

Dù vậy, so với trước Tết, lãi suất huy động đã bớt nóng phần nào. Hiện lãi suất áp dụng niêm yết công khai tại hầu hết các ngân hàng đều đã hạ nhiệt về mức dưới 9,5%/năm, đúng như các ngân hàng đã cam kết với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trước Tết. Hàng loạt ngân hàng như: Techcombank, Sacombank, SaigonBank, BacABank… đã giảm 0,2 – 0,3%/năm lãi suất một số kỳ hạn so với trước Tết.

Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tiếp tục có các động thái bơm tiền hỗ trợ thanh khoản cho thị trường. Trong phiên giao dịch đầu tiên sau Tết Nguyên đán, NHNN đã bơm ròng hơn 8.500 tỷ đồng ra thị trường qua thị trường mở.

Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú khẳng định, năm nay, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất, tỷ giá linh hoạt để đảm bảo được niềm tin của doanh nghiệp, người dân. Trong điều kiện thuận lợi, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại cắt giảm chi phí để giảm bớt lãi suất so với mức giảm lãi suất đã cam kết, đồng thuận vào cuối năm 2022.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, cung ngoại tệ dồi dào hơn, thanh khoản ngoại tệ cải thiện, sức ép tỷ giá giảm mạnh là cơ hội để NHNN tăng mua ngoại tệ dự trữ, tăng cung tiền đồng, giảm áp lực lên mặt bằng lãi suất trong nước.

Fed hạ tốc độ tăng lãi suất, sức nóng tiền gửi vẫn chưa hạ nhiệt

Doanh nghiệp nhiều ngành sẽ điêu đứng nếu lãi suất tăng cao

Lãi suất cho vay đang trở thành mối bận tâm lớn nhất nhì của doanh nghiệp năm nay. TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất cho vay ở Việt Nam đang quá cao, làm sụt giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo chuyên gia này, nhiều doanh nghiệp đang chọn phương án sản xuất cầm chừng vì càng làm càng lỗ.

Lãi suất năm 2023 khó tăng, song dự báo mặt bằng cao hiện nay sẽ được duy trì hết năm 2023, gây ra nhiều lo ngại.

Trong báo cáo vĩ mô mới phát hành, Công ty cổ phần Chứng khoán Agribank (Agriseco) nhận định, mặt bằng lãi suất trong nước có thể duy trì cao đến nửa đầu năm 2023, sau đó giảm dần vào năm 2024, khi Fed bắt đầu lộ trình giảm lãi suất. Riêng lãi suất điều hành dự báo ổn định năm nay. Lãi suất cho vay dự báo đạt đỉnh cuối quý I/2023, duy trì tới cuối năm trước khi giảm vào đầu năm 2024, tạo dư địa cho vay hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, tập trung ở các nhóm ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, xây dựng khu công nghiệp, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân).

Hiện tại, NHNN đang nỗ lực kéo giảm mặt bằng lãi suất cho vay thông qua việc hỗ trợ hệ thống. Tuy vậy, khả năng chỉ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp được khai thông, thanh khoản ngân hàng yếu được hỗ trợ kịp thời và khi các đợt tăng lãi suất của Fed kết thúc, thì lãi suất trong nước mới có thể bước vào chu kỳ hạ.

Các doanh nghiệp đang ngóng đợi việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu riêng lẻ. Trong khi đó, các ngân hàng mong chờ NHNN sớm sửa đổi các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động để giảm sức ép dự trữ thanh khoản, có thể giải phóng thêm một lượng vốn ra nền kinh tế.  

Trong khi lãi suất đầu vào chưa thể hạ nhiệt, các ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng có vốn nhà nước) đã thực hiện giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là Agribank, Vietcombank, BIDV, VietinBank. Mặc dù vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tiếp cận vốn từ nhóm ngân hàng Big 4.

Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup, nếu lãi suất không giảm, thì sẽ là thách thức vô cùng lớn cho thị trường vốn và cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023, cũng như những cân đối lớn cho các năm tiếp theo.

Ở góc độ khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư (ROIC = Return on Invested Capital) của toàn bộ doanh nghiệp niêm yết phi tài chính chỉ xung quanh 10 – 11% trong 5 – 7 năm qua (trừ năm 2020 giảm mạnh do Covid-19). Ở góc độ chi phí vốn vay bình quân cho doanh nghiệp, nếu lãi suất cho vay bình quân cao hơn mức này, thì về cơ bản và dài hạn, doanh nghiệp không thể tạo ra giá trị cho cổ đông. 

Ở góc độ lựa chọn kênh đầu tư so với tiết kiệm, nếu lãi suất huy động ngân hàng tiếp tục duy trì như hiện nay (9-10%), rất khó để người dân chuyển tiền qua kênh đầu tư và sẽ ưu tiên phân bổ vốn nhàn rỗi với tiền gửi và tiết kiệm. Do đó, doanh nghiệp khó có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển.  

Cấp room tín dụng, tăng cung tiền, kiểm soát ngân hàng yếu để hạ nhiệt lãi suất

Trao đổi với phóng viên, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, giải pháp khả thi nhất để giảm lãi suất hiện nay là tăng cung tiền. Với lạm phát kỳ vọng 4,5% trong năm 2023, lãi suất huy động phải kéo về mức 6 – 7%/năm là phù hợp, khi đó, lãi suất cho vay sẽ không trở nên quá sức với doanh nghiệp.

Năm nay, NHNN định hướng tín dụng tăng trưởng 14 – 15%, tương đương sẽ có khoảng 1,3 – 1,5 triệu tỷ đồng được hệ thống ngân hàng bơm ra cho nền kinh tế, nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Con số này khả quan hơn so với dự báo của giới chuyên gia phân tích trước đó.

Theo ông Nguyễn Quang Thuân, có 5 yếu tố cần theo dõi khi lãi suất có dấu hiệu hạ nhiệt.

Thứ nhất, khi Fed có dấu hiệu hạ nhiệt lãi suất hoặc ngừng lộ trình tăng lãi suất. Dấu hiệu này xảy ra đồng nghĩa rủi ro nhập khẩu lạm phát giảm, áp lực lên tỷ giá và lãi suất cũng giảm.

Thứ hai, khi chính sách nới lỏng tiền tệ được NHNN triển khai ở mức nhất định trong năm 2023 (khi NHNN cấp room tín dụng năm 2023, các ngân hàng giải ngân và tạo vòng quay tiền trong nền kinh tế).

Thứ ba, khi vốn đầu tư công được giải ngân mạnh và có tác động lan toả đến nhiều ngành và lĩnh vực liên quan.

Thứ tư, khi các ngân hàng thương mại nhỏ, yếu được khu trú và việc tăng lãi suất của các ngân hàng này được NHNN kiểm soát, làm giảm cuộc đua lãi suất huy động đã diễn ra từ cuối năm 2022.

Thứ năm, khi cơ quan quản lý và thị trường chấp nhận lãi suất cao phản ánh rủi ro cao ở một số lĩnh vực cho vay và sản phẩm đầu tư như trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp theo đặc thù và giai đoạn phát triển của ngành, tuỳ theo mức độ rủi ro, tuỳ theo cấu trúc sản phẩm.   

Trong Chỉ thị số 03/CT-TTg mới ban hành, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, NHNN khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế, nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên.

Năm 2023, không nên tăng lãi suất điều hành

– TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn tài chính – tiền tệ quốc gia

Fed tiếp tục tăng lãi suất, nên áp lực lãi suất, tỷ giá trong nước vẫn còn, nhưng áp lực năm nay nhẹ nhàng hơn năm 2022. Năm 2023, không nên tăng lãi suất điều hành, nếu lãi suất tăng mạnh quá, doanh nghiệp sẽ không thể chịu đựng được. Chúng tôi đã có tính toán sơ bộ và thấy rằng, cần phải hết sức thận trọng với công cụ lãi suất thời gian tới. Năm 2023, chúng ta có thể chấp nhận tiền đồng mất giá nhiều hơn một chút, song cần cân nhắc chuyện tăng lãi suất.

Lãi suất có rất nhiều áp lực tăng

– Ông Phan Dũng Khánh, Giám đốc tư vấn đầu tư Maybank Investment Bank

Lãi suất có rất nhiều áp lực tăng trong năm 2023. Tuy vậy, cần lưu ý là, dù không có quy định cứng về “trần” lãi suất huy động, song nếu lãi suất huy động tăng lên 2 con số, thì NHNN sẽ có những biện pháp ghìm lại. Ví dụ, cuối năm ngoái, khi lãi suất huy động vượt lên trên 10%, NHNN đã vào cuộc, sau đó các ngân hàng thương mại đồng thuận là không để lãi suất vượt quá 9,5%/năm. Tôi nghĩ, năm nay, lãi suất có thể vẫn tăng, nhưng mức độ không mạnh như cuối năm ngoái.

]]>
Lãi suất huy động hạ nhiệt vẫn hút người gửi tiền https://trithucdoanhnhan.net/lai-suat-huy-dong-ha-nhiet-van-hut-nguoi-gui-tien/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:39 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3394

Lãi suất huy động ở một số ngân hàng có tín hiệu hạ nhiệt, giảm từ 0,1 – 0,5%/năm so với cuối năm 2022. Dù vậy nhiều người vẫn chọn gửi tiền vào ngân hàng dịp đầu năm mới.

Lãi suất tiền gửi 6 tháng đến 12 tháng, đa phần được các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết từ khoảng 8 – 9,5%/năm. Những mức này đều đã giảm nhẹ so với thời điểm trước Tết, nhưng nhiều người vẫn chọn gửi tiền để lấy may đầu năm.

Theo các chuyên gia, lãi suất hạ nhiệt một phần vì nhu cầu vốn để cho vay đầu năm của các ngân hàng ít hơn. Do đó, các ngân hàng sẽ không cần huy động nhiều như giai đoạn cuối năm ngoái.

“Tuy mức giảm chỉ 0,2 – 0,5%, nhưng nó cũng cho thấy tình hình tín dụng trên thị trường và tiền gửi trên thị trường của dân cư vào ngân hàng đã nhiều hơn so với cuối năm 2022. Thanh khoản của ngân hàng những ngày đầu năm tốt hơn so với những ngày cuối năm 2022”, ông Ngô Minh Đức, Giám đốc Công ty Cổ phần Phát triển Vốn và Đầu tư LCTV, cho biết.

Lãi suất huy động hạ nhiệt vẫn hút người gửi tiền
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, lượng tiền gửi từ dân cư đã chảy vào hệ thống ngân hàng nhiều hơn từ cuối tháng 11 năm ngoái. (Ảnh minh họa: Dân trí)

Ngoài ra, việc các ngân hàng trung ương trên thế giới giảm dần tốc độ tăng lãi suất trong năm nay cũng góp phần làm dịu áp lực lãi suất ở trong nước. Quan trọng hơn, mặt bằng lãi suất cần hạ nhiệt để tiếp tục kích thích tăng trưởng kinh tế.

“Áp lực cần hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế năm sau là rất lớn, do đó nó cũng là một trong những yếu tố khiến lãi suất cần có diễn biến giảm để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi dự báo, tính chung cả năm 2023, mức lãi suất sẽ giảm khoảng 50 – 100 điểm cơ bản”, chị Hoàng Thị Minh Huyền, chuyên viên phân tích kinh tế vĩ mô, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt BVSC, cho hay.

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, lượng tiền gửi từ dân cư đã chảy vào hệ thống ngân hàng nhiều hơn từ cuối tháng 11 năm ngoái, với mức tăng mạnh 8,9% so với mức 6,8% của tháng 10. Xu hướng này tiếp tục mạnh hơn sau Tết đã góp phần tạo nguồn vốn ổn định cho hệ thống ngân hàng./.

]]>
VCCI: Minh bạch quy định giúp doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi https://trithucdoanhnhan.net/vcci-minh-bach-quy-dinh-giup-doanh-nghiep-tiep-can-cac-khoan-vay-uu-dai/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:31 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3545

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng minh bạch hóa các quy định, quy chế trong cho vay hỗ trợ lãi suất chính là tạo điều kiện tối đa giúp DN sớm tiếp cận được các khoản vay ưu đãi từ Chính phủ.

Phản hồi đề nghị của Ngân hàng Nhà nước về việc hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách Nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; đồng thời, trên cơ sở tổng hợp ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng minh bạch hóa các quy định, quy chế trong cho vay hỗ trợ lãi suất chính là tạo điều kiện tối đa giúp doanh nghiệp sớm tiếp cận được các khoản vay ưu đãi từ Chính phủ.

VCCI: Minh bạch quy định giúp doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay ưu đãi
Ảnh minh họa: TTXVN

Ngân hàng Nhà nước cho biết, việc triển khai chính sách hỗ trợ 2% lãi suất theo quy định tại Nghị định 31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP đang gặp phải một số khó khăn, vướng mắc, như: khách hàng e ngại thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; quy định điều kiện hỗ trợ “có khả năng phục hồi” và một số hộ kinh doanh lại không có đăng ký kinh doanh…

Thực tế, qua khảo sát các doanh nghiệp, vấn đề khách hàng e ngại thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền một phần nguyên nhân là do các quy định về kiểm tra và giám sát chưa thực sự rõ ràng. Nghị định này mới chỉ quy định theo hướng Ngân hàng Nhà nước và Tổ công tác liên ngành có quyền kiểm tra khoản vay được hỗ trợ lãi suất, tổ công tác liên ngành làm việc theo quy chế do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Tuy nhiên, hiện nay Ngân hàng Nhà nước chưa ban hành quy chế này và cũng chưa có quy định cụ thể hơn để các doanh nghiệp có thể yên tâm rằng hoạt động kiểm tra tại Nghị định này không gây chi phí quá mức một cách không cần thiết cho doanh nghiệp. Nếu có quy định minh bạch, rõ ràng hơn có thể phần nào giúp loại bỏ tâm lý e ngại của các khách hàng. 

Vì thế, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung một số nội dung như: sớm ban hành quy định về nguyên tắc hoạt động kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước và Tổ công tác liên ngành để tránh sự chồng chéo, trùng lặp với các hoạt động thanh tra, kiểm tra khác, hạn chế tối đa chi phí thời gian cho khách hàng. Cùng với đó, hoạt động kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước và tổ công tác được tiến hành chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Chỉ khi nào việc kiểm tra tại các ngân hàng thương mại phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì các cơ quan này mới tiến hành kiểm tra khách hàng và chỉ nhằm bảo đảm việc tuân thủ quy định về hỗ trợ lãi suất, không bao gồm các phạm vi khác.

Đối với vấn đề hộ kinh doanh không đăng ký kinh doanh, hiện nay, Nghị định 01/2021/NĐ-CP đang miễn đăng ký kinh doanh đối với hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Trong khi đó, Điều 2.2.a của Nghị định 31/2022/NĐ-CP đang yêu cầu hộ kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản phải có đăng ký kinh doanh thì mới được hưởng hỗ trợ lãi suất. Quy định này vô hình chung đã loại bỏ gần như toàn bộ các hộ kinh doanh nông nghiệp ra khỏi diện được hưởng ưu đãi lãi suất, trong khi đây lại là lĩnh vực tương đối bền vững trong bối cảnh kinh tế vĩ mô nhiều biến động như hiện nay. 

Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu phương án riêng đối với các hộ kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp được phép tiếp cận hỗ trợ lãi suất mà không cần có đăng ký kinh doanh./.

]]>
Chờ các giải pháp mạnh hỗ trợ thị trường bất động sản https://trithucdoanhnhan.net/cho-cac-giai-phap-manh-ho-tro-thi-truong-bat-dong-san/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:12 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3923

Sau cuộc họp nóng của Ngân hàng Nhà nước, thị trường BĐS chưa nhận được tín hiệu tích cực. Giới chuyên gia cho rằng cần những giải pháp thiết thực để hỗ trợ có trọng điểm và kịp thời cho doanh nghiệp, người mua nhà.

Những khó khăn về vốn và pháp lý tiếp tục đeo đẳng doanh nghiệp từ 2022 đến đầu 2023 và dự kiến sẽ trầm trọng hơn trọng thời gian tới. Theo ghi nhận từ nhiều đơn vị doanh nghiệp, dù mới đầu năm, doanh nghiệp bất động sản không phải lo lắng vấn đề room tín dụng, nhưng chính sách của Ngân hàng Nhà nước vẫn nhất quán là thắt chặt đối với phân khúc rủi ro, đầu cơ. Chưa kể, lãi tình hình lãi suất cao, khách hàng cũng ngần ngại trong việc ra quyết định vay mua nhà, đầu tư.

Đặc biệt, từ ngày 1/10/2022, Thông tư 22/2019/TT-NHNN đã giới hạn tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các ngân hàng, giảm từ 37% xuống 34% và tháng 10/2023 sẽ tiếp tục giảm còn 30%. Điều này khiến các doanh nghiệp chịu thêm áp lực, khó khăn nguồn vốn.

Ngoài ra, áp lực đối với doanh nghiệp vẫn rất lớn từ việc không phát hành được trái phiếu doanh nghiệp (trong khi lượng trái phiếu đáo hạn sắp tới lớn) do niềm tin của nhà đầu tư xuống thấp và các quy định chặt chẽ trong Nghị định 65 bó hẹp cả phía cung lẫn phía cầu. Do đó, vấn đề nguồn vốn là thách thức rất lớn của nhiều doanh nghiệp bất động sản ở thời điểm hiện nay.

Ngày 8/2 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức cuộc họp lắng nghe ý kiến của các ngân hàng và các doanh nghiệp với nhiều nội dung liên quan đến tín dụng, lãi suất, nới room tín dụng… những nội dung có tác động tới thị trường bất động sản, doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên, sau cuộc họp, nhiều quan điểm cho rằng, Ngân hàng Nhà nước chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể tháo gỡ vướng mắc cho thị trường bất động sản.

Chia sẻ về vấn đề này với Reatimes, ông Nguyễn Chí Thanh – Phó Chủ tịch thường trực Hội Môi giới bất động sản Việt Nam nhận định, cuộc họp của Ngân hàng Nhà nước tổ chức mới đây gần như là một cuộc họp nhằm chốt lại các nội dung đang vướng mắc của thị trường, doanh nghiệp bất động sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Ngân hàng Nhà nước.

Chờ các giải pháp mạnh hỗ trợ thị trường bất động sản
Ông Nguyễn Chí Thanh, Phó Chủ tịch thường trực Hội Môi giới bất động sản Việt Nam

“Chúng ta thời đang tìm hướng để có thể tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản ở câu chuyện nhiều doanh nghiệp không thể trả được nợ cho ngân hàng đúng hạn. Thế nhưng việc gia hạn thêm thời gian vay, thời gian trả nợ, cơ cấu nợ không phải là điều dễ dàng, bởi các doanh nghiệp, nhà đầu tư phải đưa ra được phương án khả thi. Bởi sau khi gia hạn trả nợ, doanh nghiệp liệu có thể trả nợ được không? Nếu không có phương án rõ ràng thì các ngân hàng sẽ khó có thể thực hiện việc gia hạn.

Mỗi dự án có đặc thù riêng, Ngân hàng Nhà nước sẽ không bơm tiền ồ ạt vào các dự án. Do đó phương án tốt nhất là ưu tiên cho các doanh nghiệp phát triển nhà ở xã hội, nhà ở bình dân vay vốn phát triển dự án. Cùng với đó, các dự án trọng điểm, quan trọng gắn với đời sống an sinh, xã hội có các tiêu chí rõ ràng sẽ được vay vốn”, ông Thanh nói. 

Ông Nguyễn Chí Thanh cũng cho rằng, doanh nghiệp bất động sản khi vay vốn sẽ cần có các tài sản đảm bảo, đặc biệt là phải chủ động có giải pháp cho hàng tồn kho. Chỉ khi khơi thông được hàng tồn kho, việc vay vốn để làm tiếp dự án mới dễ dàng hơn.

Nếu giảm lãi suất cho vay, chắc chắn thị trường sẽ xảy ra xung lực nhất định; trước mắt là ổn định và sau đó là quá trình phục hồi và phát triển. Thế nhưng việc hạ lãi suất cho vay bất động sản có thực hiện được hay không vẫn phải dựa trên diễn biến của tình hình thực tế và cần có giải pháp thực tiễn hơn, không để thị trường được vay một cách ồ ạt, làm phá vỡ hệ thống. 

Ông Thanh đặc biệt nhấn mạnh: “Việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thị trường trong bối cảnh ảm đạm là cần thiết, cấp thiết. Giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp bất động sản từ phía Nhà nước là điều cần có song đầu tiên việc chủ động tái cấu trúc của doanh nghiệp vẫn là quan trọng nhất. Nhìn vào bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp phải hướng vào các phân khúc sản phẩm phù hợp, đưa mức giá bất động sản nhà ở xuống mức dễ chịu hơn, phù hợp với khả năng chi trả của người mua có nhu cầu sử dụng thật. Doanh nghiệp cũng phải quản trị tốt được dòng tiền của mình để tránh rơi vào nhóm nợ xấu”.

Còn theo ông Nguyễn Đức Lập – Viện trưởng Viện nghiên cứu và đào tạo Bất động sản, rõ ràng bài toán xử lý trái phiếu như nhiều doanh nghiệp đề xuất hay việc khoanh, giãn nợ, giảm lãi vay cho doanh nghiệp trong bối cảnh diễn biến của thị trường hiện nay là khó khả thi và Ngân hàng nhà nước cũng không thể quyết định được. Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô cũng đang chịu nhiều sức ép khác nhau cần giải quyết.

Do đó, lúc này doanh nghiệp vẫn cần tập trung tự thân vận động, giải quyết tồn kho thông qua giảm giá, tái cấu trúc lại sản phẩm, giảm nguồn dự trữ quỹ đất, thu hút vốn qua kênh đối tác khác trong và ngoài nước, thực hiện các nghiệp vụ M&A để giải quyết dòng vốn… Đồng thời xem xét thương lượng hoán đổi trái phiếu bằng sản phẩm tồn kho hiện hữu, tập trung hoàn thiện các sản phẩm dở dang có thể đưa vào thị trường.

Chờ các giải pháp mạnh hỗ trợ thị trường bất động sản
Ông Nguyễn Đức Lập, Viện trưởng Viện nghiên cứu và đào tạo Bất động sản.

Cũng theo ông Lập, Nhà nước cần tập trung đẩy nhanh việc thực hiện các thủ tục pháp lý để hỗ trợ doanh nghiệp đưa các sản phẩm ra thị trường. Đối với các dự án đã ách tắc lâu năm do sai phạm pháp lý từ trước cũng cần sớm giải quyết triệt để giúp cho doanh nghiệp và cả những người dân đã đầu tư có được sản phẩm để khơi thông thế bế tắc, tạo tâm lý và niềm tin tốt hơn cho thị trường.

Cần sớm đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công các dự án hạ tầng trọng điểm để phát triển hạ tầng, gia tăng giá trị bất động sản, hỗ trợ thúc đẩy kinh tế, đưa tiền vào lưu thông, tạo xung lực kích thích kinh tế phát triển, góp phần tạo động lực cho thị trường bất động sản hồi phục.

Ngoài ra, cần sớm hoàn thành các đồ án quy hoạch để khơi thông nguồn cung dự án cho thị trường.

Riêng với bài toán gỡ khó dòng vốn cho doanh nghiệp bất động sản, ông Lập kiến nghị, hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần sớm công bố các chỉ tiêu tín dụng trong năm để các doanh nghiệp có cơ sở định hướng chiến lược và kế hoạch kinh doanh cho mình.

Bên cạnh đó, cần có giải pháp khơi thông và bổ sung các nguồn vốn đang tắt nghẽn ở các kênh trái phiếu của cả doanh nghiệp và của Nhà nước nhưng chưa được đưa vào lưu thông trên thị trường để bổ sung bù đắp cho sự thiếu hụt của nền kinh tế.

“Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân nhắc đánh giá toàn diện về hệ số an toàn về vốn cho vay bất động sản với các chỉ số chuyên biệt cho từng dự án, giao ngân hàng thương mại chịu trách nhiệm về việc đánh giá này. Không đưa ra chỉ số kiểu cào bằng cho tất cả dự án, sản phẩm…”, ông Lập nhận định.

Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Anh Quê – Chủ tịch Tập đoàn G6 cho rằng, cuộc họp của Ngân hàng Nhà nước không được như kỳ vọng của doanh nghiệp cũng như người dân. Theo thông điệp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, những dự án có pháp lý, chủ đầu tư có uy tín mới được vay vốn. Bên cạnh đó, người mua muốn vay cũng phải chứng minh khả năng trả nợ và mua dự án có tính thanh khoản tốt. Như vậy, việc vay vẫn là khó khăn với nhiều chủ đầu tư và người mua nhà.

Theo ông Quê, để tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, doanh nghiệp bất động sản, Ngân hàng Nhà nước cần hạ lãi suất tiết kiệm và cho vay. Hiện lãi suất tiết kiệm đang hấp dẫn hơn nhiều kênh đầu tư khác nên dòng tiền chảy vào ngân hàng lớn. Khi lãi suất tiết kiệm không còn hấp dẫn, dòng tiền sẽ chảy sang bất động sản. Đồng thời, ngân hàng cũng nên hạ lãi suất cho vay để gỡ khó cho cả chủ đầu tư và người mua nhà.

]]>