Miền Núi – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Thu, 11 Sep 2025 03:24:19 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Miền Núi – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Phát triển lâm nghiệp theo chuỗi giá trị để tăng trưởng ngành vượt 5%/năm https://trithucdoanhnhan.net/phat-trien-lam-nghiep-theo-chuoi-gia-tri-de-tang-truong-nganh-vuot-5-nam/ Thu, 11 Sep 2025 03:24:16 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/phat-trien-lam-nghiep-theo-chuoi-gia-tri-de-tang-truong-nganh-vuot-5-nam/

Lâm nghiệp – một ngành chủ chốt của nền nông nghiệp, đang trên đà trở thành ngành xuất khẩu tỷ USD. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng vượt mốc 4,7-5%/năm và tiến tới đạt mức hai con số trong tương lai, ngành lâm nghiệp cần phải thay đổi phương thức quản lý, tăng cường ứng dụng công nghệ chế biến và phát triển kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi giá trị.

Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mục tiêu phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, sử dụng bền vững tài nguyên rừng, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân miền núi và người làm nghề rừng.

Một trong những mục tiêu quan trọng của đề án là sản lượng gỗ khai thác trong nước đáp ứng ít nhất 80% vào năm 2030 và 100% vào năm 2050 nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ. Bên cạnh đó, 100% gỗ và sản phẩm gỗ phải có sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Các tỉnh có rừng đã tăng cường nhiều biện pháp quản lý, phát triển rừng bền vững. Tại Bắc Giang, các doanh nghiệp đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý giống lâm nghiệp, thâm canh trồng rừng, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng.

Tương tự, tại tỉnh Cà Mau, kinh tế lâm nghiệp đã phát triển bền vững với năng suất rừng trồng khu vực U Minh Hạ đạt 90-180 m3/ha/chu kỳ từ bốn đến sáu năm. Người dân còn đa dạng hóa nguồn thu nhập từ các hoạt động chính trong lâm nghiệp như trồng rừng, khai thác, vận chuyển, tiêu thụ lâm sản.

Tuy nhiên, trong bối cảnh xu hướng phòng vệ thương mại toàn cầu ngày càng gia tăng, việc quản lý rừng bền vững, đáp ứng các quy định của thị trường xuất khẩu về xuất xứ, chứng chỉ rừng là vấn đề then chốt để phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững.

Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, cả nước hiện có diện tích rừng trồng keo khoảng hơn 1 triệu ha, chiếm hơn 30% tổng diện tích rừng trồng toàn quốc. Đây là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, ván nhân tạo, dăm gỗ và sản xuất đồ gỗ phục vụ xuất khẩu.

Để gia tăng giá trị kinh tế lâm nghiệp, việc khai thác gỗ non cần hạn chế, mà nên để lại thêm từ 5-6 năm, biến nguồn nguyên liệu này trở thành những cánh rừng gỗ lớn, từ đó gia tăng gấp đôi trữ lượng gỗ.

Hiện đại hóa sản xuất, gia tăng chế biến sâu là hướng đi quan trọng để phát triển kinh tế lâm nghiệp. Kế hoạch phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024-2030 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định đến năm 2030, tổng diện tích rừng trồng sản xuất gỗ lớn đạt khoảng 1 triệu ha.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam Ngô Sỹ Hoài cho rằng, các đơn vị chủ rừng cần nỗ lực tham gia các dự án quản lý rừng bền vững và đạt chứng chỉ rừng bền vững; áp dụng kỹ thuật nuôi dưỡng, chuyển hóa rừng trồng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn, nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị cũng nhấn mạnh, ngành lâm nghiệp đang đứng trước nhiều thách thức khi xu hướng phòng vệ thương mại gia tăng đi kèm với các quy định mới được ban hành về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ vào các thị trường: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước thuộc Liên minh châu Âu.

Trong bối cảnh đó, các bên liên quan cần nâng cao năng lực quản trị rủi ro, phòng vệ thương mại, tăng khả năng tiếp cận vốn, xây dựng chuỗi giá trị bền vững từ khâu trồng rừng, chế biến đến phát triển hệ thống phân phối tại các thị trường trọng điểm.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://trithucdoanhnhan.net/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Sat, 30 Aug 2025 08:38:28 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Vụ Pháp chế: Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác dân tộc https://trithucdoanhnhan.net/vu-phap-che-day-manh-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/ Sun, 03 Aug 2025 18:23:08 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/vu-phap-che-day-manh-hoan-thien-he-thong-phap-luat-ve-cong-tac-dan-toc/

Trong giai đoạn hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách pháp luật đang đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Một điểm nhấn quan trọng trong giai đoạn này là việc tham mưu cho cấp thẩm quyền ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Chương trình này không chỉ tập trung vào việc phát triển kinh tế – xã hội mà còn hướng đến cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Bên cạnh đó, đơn vị đã tích cực tham mưu ban hành các nghị định về công tác dân tộc, về phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo và các thông tư hướng dẫn để chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và phát triển ở các địa phương.

Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề
Thủ tướng tới Điện Biên, thăm hỏi người dân, chỉ đạo khắc phục hậu quả thiên tai nặng nề

Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục. Để cải thiện tình trạng này, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế. Công tác xây dựng pháp luật phải tiên phong, đi trước và lấy chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng thể chế là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần chuyên nghiệp hóa nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật; tăng cường kiểm tra, giám sát; xác định công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, thường xuyên của Bộ, cơ quan.

Vụ Pháp chế đã tham mưu ban hành Kế hoạch rà soát, hoàn thiện hệ thống, cơ chế, chính sách, pháp luật về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc. Đồng thời, Vụ cũng đã tham mưu ban hành Kế hoạch xây dựng Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng và địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quyết định thành lập Tổ soạn thảo xây dựng dự thảo Đề án Phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những kế hoạch và đề án này đặt ra hướng đi cụ thể cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.

Nhiệm vụ ưu tiên trong năm 2026 là đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết mới về chủ trương, chính sách lớn, các đột phá chiến lược tầm nhìn đến năm 2045 về công tác dân tộc và trình Quốc hội sửa đổi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác dân tộc và tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ mới.

]]>
Hội phụ nữ tỉnh giúp hàng nghìn phụ nữ thoát nghèo nhờ nguồn vốn ưu đãi https://trithucdoanhnhan.net/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-nghin-phu-nu-thoat-ngheo-nho-nguon-von-uu-dai/ Tue, 29 Jul 2025 09:56:20 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/hoi-phu-nu-tinh-giup-hang-nghin-phu-nu-thoat-ngheo-nho-nguon-von-uu-dai/

Các cấp hội phụ nữ tỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp hàng nghìn hội viên phụ nữ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi chính sách, tạo điều kiện cho họ tự tin khởi sự kinh doanh và xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả. Điều này không chỉ giúp phụ nữ vùng nông thôn, miền núi thoát nghèo mà còn tạo ra những điểm sáng trong công cuộc giảm nghèo bền vững.

Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.
Bà Trần Thị Vân (xã Thống Nhất) giới thiệu mô hình kinh tế vườn tổng hợp của gia đình.

Các cấp hội phụ nữ tỉnh đã tích cực hỗ trợ hội viên trong việc tiếp cận nguồn vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn. Quá trình vay và cho vay luôn được thực hiện một cách minh bạch, công khai, đúng đối tượng và đúng quy trình. Hội viên được hướng dẫn lập hồ sơ vay vốn một cách bài bản, tư vấn cách sử dụng vốn hiệu quả và cam kết trả nợ đúng hạn.

Một điển hình trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi là bà Đỗ Thị Lợi, người đã xây dựng được một trang trại bò với 50 con, cho thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm. Cuộc sống gia đình bà đã ổn định và khang trang hơn, con cái được học hành đầy đủ. Thành công của bà Lợi là minh chứng cho việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ưu đãi và sự hỗ trợ của hội phụ nữ.

Bên cạnh đó, nhiều hội viên đã chuyển hướng sang kinh tế vườn tổng hợp và đạt được thành công. Bà Trần Thị Vân, với 3ha đất vườn đồi, đã đầu tư trồng cây thanh long ruột đỏ, na, vải, ổi… và cho thu nhập 150-200 triệu đồng mỗi năm. Nhờ nguồn vốn ưu đãi được tiếp cận minh bạch và sự hướng dẫn kỹ thuật từ hội phụ nữ, mô hình của bà đã trở thành một địa chỉ học tập cho nhiều chị em khác.

Để tạo điều kiện vay vốn làm ăn cho hội viên, Hội thường xuyên phổ biến các chính sách cho vay, công khai, minh bạch trong việc lựa chọn đối tượng được vay và giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ vay vốn. Sự phát triển của các mô hình kinh tế do phụ nữ làm chủ không chỉ thể hiện sự minh bạch trong cho vay vốn đúng người, đúng việc, mà còn cho thấy sự ứng dụng công nghệ trong quản lý và sản xuất.

Hiện nay, toàn tỉnh có hàng trăm mô hình tổ tiết kiệm và vay vốn do phụ nữ quản lý. Nhờ hoạt động công khai, dân chủ, minh bạch, các mô hình này không chỉ giúp hội viên phát triển kinh tế, mà còn củng cố niềm tin vào tổ chức Hội. Những người phụ nữ từng e ngại tiếp cận tài chính, nay đã trở thành trụ cột kinh tế, chủ động trong sản xuất, kinh doanh và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến cộng đồng.

Trong thời gian tới, các cấp hội phụ nữ tỉnh tiếp tục phát huy vai trò cầu nối chính sách, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý vốn, đồng thời khuyến khích các mô hình phụ nữ làm chủ kinh tế tiếp cận công nghệ, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

]]>