mùa xuân – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:04 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg mùa xuân – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Se se gió gọi… bài Tết https://trithucdoanhnhan.net/se-se-gio-goi-bai-tet/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1692

Trước mùa giai phẩm tưng bừng sinh sắc, tất nhiên rồi, phải là mùa lia ngón tay trên bàn phím dào dạt. Một mùa sản xuất bài Tết cặm cụi và hưng phấn đã bắt đầu rồi.

Như ngày trước máy tính chưa thịnh hành, hoặc là với các văn sĩ, thi nhân, tác giả cao tuổi, không quen gõ máy, “mổ cò” thì lâu la quá, lại vẫn xúc cảm với trang bản thảo viết tay, thì như một số cụm từ hay được dùng để tả về họ, là viết lia lịa, lia bút soàn soạt, hoặc suốt sáng sang chiều cặm cụi, nắn nót từng chữ…

Viết bài Tết phải sớm, đáp ứng tiến độ chuẩn bị, biên tập, dàn trang, duyệt bài… của tờ báo đặt bài. Vì thế mới có hình ảnh vui người viết hay nhắc, là mới đầu thu nắng còn oi ả, đến chơi bác nhà văn, thấy bác xoay trần ra, đầm đìa trước chồng giấy. Hỏi bác lao động gì mà quần quật thế, bác bảo đang viết bài Tết đây. Hoặc có liên hệ nhà thơ xin bài thơ Tết, không khí xuân sắc cho nó ấm cúng, nhẹ nhàng, thì quả là phải “vận nội công” ghê gớm bởi vào lúc heo may se se đã phải hình dung ra gió xuân hây hẩy, nụ đào chúm chím, nắng ửng hồng đậu trên vai áo ai…

Nghĩ hài hóm chút chút vậy thôi, chứ đâu cứ ngày mùng Một, mùng Hai Tết Nguyên đán hay làn khói thơm thảo Giao thừa mới gợi lại cho ta những hoài niệm sum vầy đầm ấm. Mà ngay ra ngoài Tết chưa được bao lâu, nhìn những ruộng đào cắt luôn gần hết, chỉ còn nhô lên một đoạn gốc, thân, có thể còn chút cành, được phủ lên một đoạn vôi trắng, là mình đã chơm chớm mủi lòng tiếc xuân, nhớ Tết.

Và lâu lâu lại có dịp rẽ ngang qua một vùng ruộng đào nào đó, thấy cây dần um xanh lên những cành nhánh nhỏ, rồi lá đã tuốt, rồi thấp thoáng mấy bóng đèn điện chăng ra cho người ngủ trông tối, ruộng đào chuyển hình thù phủ ni lông, che chắn lụp xụp từ lều đến cây. Lại thấy nao nao những mong chờ, những đoán đợi, những nghĩ suy về ước hẹn của trời đất, mùa màng. Mấy anh chị em văn bút gọi nhau lang bang rong ruổi những nẻo đường núi cao dẫn lên, lên mãi vào mây lớn, thung xanh, nước non mờ xa trùng điệp. Như là đi chơi Tết sớm vậy. Lá hoa, non nước, đồng bào, củi lửa, những sắc màu thổ cẩm, dốc cao, và ngô khoai, và rượu, những câu chuyện rừng xa, tập quán, những điểm trường sâu, những người lính biên phòng…, tất cả cứ mọc lên trong cuộc du ngoạn nhiều bất ngờ, thật cứ như mùa xuân đến rồi ấy! Sinh sôi, tiếp nối, mới mẻ và xanh tốt, những chuyến đi thường mang ý nghĩa của mùa xuân, tuổi thanh xuân. Thế là những người văn có nhiều điều để viết, kể những chuyện tai nghe mắt thấy.

Se se gió gọi… bài Tết
Nhìn thấy hoa đào lại thấy nao nao những mong chờ, những đoán đợi, những nghĩ suy về ước hẹn của trời đất, mùa màng. (Ảnh minh họa: Internet)

Cũng có khi không phải vậy, mà người cầm bút xâu chuỗi những điều nhặt nhạnh bao lâu nay để chiêm nghiệm Tết nhất, mùa xuân, thân phận, nghiệp nghề, những đổi thay… Bài Tết, thực tế không chỉ, không cứ và thậm chí bây giờ cũng không quá nhiều những tản văn bánh chưng, tùy bút mừng tuổi, thơ hoa đào hoa mận, những ghi chép Tết đến xuân về nơi bản xa, miền biên ải, hoặc những không khí vui Tết xuân đặc thù ở nơi nào, của những cộng đồng con người nào đó có nét đặc sắc về văn hóa, nghề nghiệp. Không ít tờ báo xuân cũng chỉ cần điểm xuyết một ít bài vở làm “duyên mùa”, như nhành đào đủ thưa thoáng hoa, nụ, lộc non. Mùa xuân trên báo Tết còn là nhiều những đề tài đời sống, xã hội, kinh tế, chính trị với những con người, những thành tựu ngoạn mục khác, dành nhìn lại, ngẫm ngợi thời gian qua để đến dịp đầu năm đưa lên trang báo mừng công.

Cũng lại có những ý tưởng có lý lẽ riêng. Hãy để số báo xuân nhẹ nhàng, giản dị hơn với những bài viết thiên về văn hóa, văn nghệ, sáng tác mang không khí Tết nhất, truyền thống, sum họp, quây quần. Còn những gì bề thế, lớn rộng, nước non, con người, những công trình, sự kiện, dấu mốc… của thể thao, của đối ngoại, của hội nhập, của xuất khẩu và mọi thứ trên đời, thì nên để cho các số đặc biệt, các số báo gộp dày dặn, những số thường có chủ điểm, chuyên đề.

Tất nhiên, đấy cũng là một cách cho ứng hợp tình hình, điều kiện. Vì thế, viết bài Tết cũng nhiều hình thức, nhiều chuyến đi, nhiều đối tượng, tác giả đa dạng lắm lắm. Một nhà thơ “cha chú” của chúng tôi, người “cao tuổi” nhưng còn nghĩ mình thanh niên, hưu đã lâu rồi nhưng chưa chịu để cuộc đời “hắt” đi, những dịp này mấy năm qua vẫn rong ruổi đề tài Tết lắm. Khoảng cách gần gần trăm cây đổ về, ông dong xe máy vi vu bình thường. Xa xa miền Trung, ông nhảy xe khách, xa tít Tây Nguyên, miền Nam, ông bay vào, ở đâu cũng có đồng nghiệp hào hiệp đãi đằng, gợi mở những thực tế hay, chỉ chỗ này chỗ kia quen biết, cho mượn xe máy lên đường. Hoặc xe khách nối các tỉnh, các huyện thì cũng sẵn chuyến lắm. Và đã lên đường thì với người sáng tác kỳ cựu, có thâm niên biên tập, tổ chức trang báo như ông, đề tài để thâm nhập có thể nhận ra ở nhiều nơi lắm. Bước vào tháng Chạp, là ghi chép văn hóa, chân dung văn nghệ, bút ký những đường đất của ông “bay lượn” trên những trang báo.

Có năm nọ tôi thống kê vui khi đọc lướt báo Tết, áng áng được, có những nhà thơ đăng hàng chục, mấy chục bài thơ Tết, trên báo Trung ương, bộ ngành, báo hội nghề, rồi báo chí của hội văn học nghệ thuật các tỉnh. Rồi có những tên tuổi đã nổi danh, cũng rất được chuộng về tản văn, tùy bút, thỉnh thoảng mở báo này, báo kia lại thấy trang trọng một áng văn đượm đà hương sắc vùng miền. Một số nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình uy tín và viết hay, được trọng nể thì cũng hay góp mặt trên các trang báo xuân. Nhưng cũng phải lựa chọn để đầu tư thời gian, sức lực thôi, chứ không dễ dàng nghe các em, các cháu “nỉ non” mà đáp ứng cho hết được. Ở đây thì cũng có một cái là có những khi đặt một số tên tuổi, thì cũng nên chuẩn bị bài “sơ cua”, phòng khi trăm lẻ một những lý do khách quan và chủ quan mà bài vở, tác phẩm không như hẹn được. Thỉnh thoảng tôi thích những bài viết, sáng tác mới, từ những cái tên “mơi mới, tre trẻ” khi trong những dòng viết có gì hơi lóe lên, hơi khang khác, là lạ một chút. Dường như trong sự mạnh dạn gửi gắm, cũng có thêm niềm thiết tha. Chúng tôi có được nhiều nữa những cây bút mới tài hoa hay le lói những suy tư tìm tòi nghiêm ngắn, những bộc bạch hồn nhiên trong sáng tác, cũng là để thêm tươi, thêm cung bậc, màu sắc cho trang báo xuân của mình.  

Se se gió gọi… bài Tết
Hãy để số báo xuân nhẹ nhàng, giản dị hơn với những bài viết thiên về văn hóa, văn nghệ, sáng tác mang không khí Tết nhất, truyền thống, sum họp, quây quần. (Ảnh minh họa: Internet)

Nhiều người viết cũng có những sự lo toan cho bài vở, tác phẩm của mình khác nhau. Lâu lâu trước, một lần tôi đang ngồi họp cộng tác viên ở tờ báo về pháp luật của anh bạn, đúng lúc nhà văn Đỗ Chu gọi điện thoại. Ông bảo có mấy chữ trong truyện ngắn mới gửi cho số báo Tết của tờ báo về nông thôn tôi đang làm khi đó, chưa được ưng lắm, thay giúp “tao” bằng chữ này, chữ này… Vâng vâng dạ dạ, ghi sẵn ra để về còn sửa. Lát sau, ông lại gọi tiếp, chắc nhà văn rà lại, nghĩ gì đó chưa yên tâm, cả chỗ này nữa nhé, ông dặn đi dặn lại. Lần nọ, đặt được bài họa sĩ, nhà nghiên cứu, phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân. Ông rất đúng hẹn. Và được biết những “mùa bài Tết” như thế này hay việc viết cộng tác cho báo nào đó trong năm, ông cũng chỉn chu như vậy. Rồi có xin phép ông cho gọt bớt, sửa sang vài chữ, cũng phải cẩn thận chứ, bởi mỹ thuật hay nghệ thuật nói chung là mảng đề tài mà không ít người làm báo vốn theo nghề văn chương hay tin rằng mình biết, họa sĩ lại rất “thoáng”, cứ điều chỉnh theo nhu cầu của báo nhé, tùy các bạn thôi, mỗi báo lại có những cái khác nhau mà.

Nhưng cũng phải tự hiểu rằng, cho phép vậy không có nghĩa là mình được “bẻ” cái bài theo ý khác. Mà vẫn phải tôn trọng ý tứ, nội dung, khi cần phải làm chỉ nên điều chỉnh lượng chữ cho vừa diện tích trang báo. Tất nhiên, cái việc phải “gọt giũa” sao cho cân đối, đáp ứng yêu cầu đủ “đất” cho bài, trang nhã về hình thức thì cũng vẫn là muôn thuở. Vả lại phía tác giả cũng yên tâm khi gửi bài cho mình, bởi nhiều nội dung, câu chữ có tính chuyên môn, thì trừ lý do đặc biệt mà không dùng được, còn thì cũng khó lòng mà “thò bút” vào sửa thành khác đi được.     

Tầm này, một số báo đã đăng những lời “mật ngọt” mời viết bài Tết rồi đấy, làm cho những ai ai đó nghề viết cũng hơi nao nức. Tất nhiên là ngoài lời mời gọi chung gửi đến “tất cả mọi người” ra thì phải có những tác giả thuộc diện “hàng thửa” để cho tác phẩm, bài viết trong tương lai gần dành đăng giai phẩm xuân được yên tâm, ưng ý. Vì thế mà có những cuộc gọi, email, những dòng “chát chít” gọi mời, nhờ cậy, trao đổi đề tài. Và sau đó một thời gian lại là gọi nhắc, là giục giã, trông đợi ngày ngày. Nhiều tác giả khi đã nhận lời là cũng bắt đầu một chặng thời gian canh cánh bận lòng, để mà rong ruổi, thâm nhập, lâng lâng nghĩ suy, đi vào đi ra, nâng lên hạ xuống câu chữ. Rồi miệt mài, phấn khích, đến lúc xong xuôi, ấn nút gửi bài bay đi, gọi điện nhắc một câu, “gửi rồi đấy nhé, kiểm tra xem bài đến chưa…”, đằng kia vâng dạ, báo lại, cảm ơn đã thấy ạ, là nhẹ cả người! 

Ngẫm cái thú viết bài Tết cũng là nét riêng. Dù bây giờ nhuận bút các số thường đa phần các báo đã cải thiện. So với các số Tết, số đặc biệt, số tất niên, tân niên…, “tiền bút mực” cũng không đến nỗi quá là “kém cạnh”. Vả lại, dẫu bài Tết có thù lao cao gấp ba, gấp bốn…, thì cũng phải là sản phẩm “nặng đô” hơn. Mấy bài cho số thường viết thong thả “diệu dàng” như… đi cấy đi cày ngày ngày thì nhuận bút gom lại cũng gần gần như nhau thôi. Nhưng cái vui tươi, đợi mong âm ỉ tờ báo Tết thì không thay thế được. Đợi người đưa báo, gửi báo, hoặc báo tin để thả bộ ra sạp tìm mua, thấy bài mình đăng nền nã trên trang báo bóng láng dày dặn đang cùng hướng vọng mùa xuân, thì niềm “vinh hạnh xinh xinh” đó phải lâu lâu mới được hưởng./.

]]>
Tàu đã chở mùa xuân ra đảo https://trithucdoanhnhan.net/tau-da-cho-mua-xuan-ra-dao/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:52 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3093

Những con tàu làm nhiệm vụ giữa trùng khơi là sợi dây yêu thương nối đất liền với đảo. Từng gói bánh kẹo, trà mứt vui xuân… những món quà ấm nồng giản dị và quý giá giữa bốn bề sóng lừng, gió mặn.

Thời điểm này, lần lượt những chuyến tàu từ đất liền ra quần đảo Trường Sa và Nhà giàn DK1 đã kéo ba hồi còi tha thiết ra khơi. Ăm ắp trên mỗi chuyến tàu là tình cảm của cả nước hướng về biển đảo. Nàomì gạo Phú Thọ, chè Thái Nguyên, bánh chả Hà Nội, bánh dừa Bình Định… cùng hàng nghìn tấm thư, thiếp chúc mừng năm mới của các em học sinh đã kịp gửi đến bộ đội nơi đảo xa. Dịp Tết, Trường Sa vào mùa biển động. Những món quà mang ý nghĩa tinh thần càng góp phần tiếp thêm niềm tin, hy vọng để người lính và hậu phương của họ thêm vững vàng “vượt sóng”.

Năm 2019, tôi từng có dịp đến thăm một căn hộ chung cư ở đô thị Cam Ranh (Khánh Hòa) trước khi đặt chân lên chuyến tàu công tác Trường Sa. Ở đó, hầu hết gia cảnh của các mái ấm đều giống nhau bởi người đàn ông, trụ cột gia đình đang làm nhiệm vụ canh giữ biển trời Tổ quốc. Nhà không có đàn ông, từ việc lớn như gia đình, con cái, họ mạc đến cái quạt, ti vi bị hỏng, bắc ghế đóng đinh lên tường cũng chỉ một tay phụ nữ.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
TS. Nguyễn Việt Hùng, Giám đốc Bảo tàng Tuổi trẻ Việt Nam tham gia vận chuyển quà. (Ảnh: NVCC)

Một người vợ lính trò chuyện cùng tôi, giọng miền Trung đầy thương khó: “Vất vả vậy nhưng mấy mẹ con chị vui lắm em à! Mẹ con chị chuyển được vào Cam Ranh cách đây mấy tháng, vậy là được gần anh rồi”. Tôi hỏi lại: “Hơn chục năm nay, mỗi năm anh một lần phép, thế bây giờ thì sao?” Giọng chị chợt chùng xuống: “Bây giờ thì… cũng rứa! Có điều, chị và cháu ở đây, ít ra, những lúc mọi người ra thăm đảo rồi mùa thay thu quân, chị được hỏi thăm anh qua người đi, người về”. Nhác thấy nét mặt đầy tâm trạng của tôi, chị rủ rỉ tâm tình, giải thích: “Nếu em có chồng ra đảo, em sẽ thấu cảm giác gần kề dù chẳng gặp được nhau, dù lòng vẫn thổn thức, nấc nghẹn khi nghe tiếng còi tàu chào cảng”.

Những người vợ lính ở khu đô thị này tuổi đời còn rất trẻ. Vì thương con, ngóng chồng mà họ phải xa quê, có người dở dang công việc và hoài bão. Có người vợ lính đã viết những câu thơ: “Anh biết không em sợ tiếng còi tàu/ Bởi nhói lòng khi ta phải xa nhau/ Dẫu đến nay đã bao lần đưa tiễn/ Vậy mà sao nước mắt cứ chực trào”. Cây hoa hồng bằng ốc ngọc lan được cháu bé mang ra khoe với tôi là của bố cháu gửi về. Cháu kể, sau giờ huấn luyện, bố cũng như rất nhiều chú bộ đội trên đảo sẽ ra bờ cát tìm vỏ ốc, dây thép, ni-lông để làm cây hoa ốc gửi về đất liền tặng gia đình, bè bạn. Cây hoa ốc trước mắt tôi thật đặc biệt bởi có 3 khóm. Khóm lớn 38 bông hoa ứng với số tuổi của vợ lính, còn lại 2 khóm nhỏ, số hoa là số tuổi các con.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Cây hoa ốc ở Trường Sa. (Ảnh: NVCC)

Biển đảo bao la mà cũng gần gụi lắm. Cứ nhìn can cà muối từ đất liền chuyển lên tàu là hiểu. Trên vỏ can chỉ đề mỗi “Dũng – TSĐ”, TSĐ là đảo Trường Sa Đông viết tắt, mà ở đó chắc chắn nhiều người trùng tên, thế nhưng bằng cách nào đó, đồ vẫn tới tay người cần nhận. Ăm ắp hàng quà, cũng ăm ắp tâm tư bởi chuyến tàu cuối năm ngoài nhiệm vụ cấp hàng Tết còn thay, thu quân. Những người lính mới và lính đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự thay nhau lên, xuống. Có lẽ, chính bởi lẽ ấy mà đêm trên chuyến tàu cuối năm thường thiên về các cuộc tâm tình. Bộ đội trên tàu thả cước câu cá theo quán tính, dường như chẳng mấy ai cần chờ kết quả. Những câu chuyện cứ tiếp nối câu chuyện, chuyện nhà, chuyện quê. Ban ngày bộ đội giữ ý bởi ai cũng có nhiệm vụ, thế nên càng về khuya, lời cứ tuôn ra như là tự sự. Rồi đến lúc, bỗng chẳng ai nói gì mà tất cả cứ thấy ắp đầy giao cảm. Ở không gian bao la, ta như được hòa nhập với biển trời và biển trời cũng đưa con người xích lại với nhau từ bên trong.

Cả chục ngày lênh đênh trên biển, ghé thăm đảo nổi, đảo chìm, tưởng chừng muối mặn khơi xa đã ngấm sâu đến từng hơi thở ấy thế mà khi tới thềm lục địa phía Nam, lên Nhà giàn, cảm xúc về biển cả lại rộng mở ra những chân trời miên man, thẳm biếc. Bình minh chầm chậm dâng lên, sừng sững trước mắt người ngôi nhà thép sơn vàng bừng sáng hệt đóa hoa hướng dương. Bỗng đâu, có cơn giông bất ngờ kéo đến dù phía xa kia, vẫn khung trời bình minh sóng sánh vàng như mật. Tàu bắt đầu rung lắc, sóng biển đánh thẳng vào chân nhà giàn, trắng cả một vùng.

Cơn giông qua đi rất nhanh, tàu tiến gần Nhà giàn hơn, càng tiến gần càng thấy đóa hoa thép kia vững vàng, sừng sững. Những trụ thép lớn kẻ dọc ngang mặt biển kiêu hãnh, hiên ngang mà không kém phần lãng mạn. Nó dấy lên trong tôi sự bất ngờ, ngỡ ngàng, không hiểu bằng cách nào và trải qua bao thăng trầm để chúng ta có thể xây dựng nên những cột mốc chủ quyền đầy thiêng liêng ấy.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Chuyển quà lên tàu. (Ảnh: NVCC)

Khi đất trời vào xuân, nơi đất liền phố phường tấp nập, người người, nhà nhà rộn rã sum vầy ấm cúng bên mâm cỗ tất niên… thì vẫn có những chuyến tàu cấp hàng lặng lẽ làm nhiệm vụ. Nhiều chuyến tàu khởi hành đúng ngày Ba mươi Tết. Tàu vừa chạy vừa nấu bánh chưng! Rời đất liền đúng dịp Tết, vừa ra khơi vừa đón xuân giữa bốn bề trời biển mênh mông.

Cảm xúc ấy chắc chắn phải da diết, bâng khuâng, tự hào lắm, bởi đúng thời điểm đặc biệt đó, những người lính trên tàu vẫn mang trên vai nhiệm vụ “chở tình yêu của đất liền ra đảo”.

Đại úy Quách Minh Phú, Chính trị viên Tàu 521, Hải đội 413, Vùng 4 Hải quân từng mở lòng kể về những kỷ niệm của anh và đồng đội khi đón xuân giữa trùng khơi. Ngày ấy, con tàu cấp hàng họ đi còn cái tên là “Tàu thanh niên” vì một lẽ rất tình cờ: Hầu hết nhân sự đều chưa lập gia đình. Tuổi trẻ của những chàng trai chưa yêu cứ hăng hái, say mê “chở tình yêu ra đảo”.

Chàng lính trẻ có nhiệm vụ nấu bếp lúc nào cũng luôn miệng: “Khi nào về đất liền em sẽ mua một rổ rau thật to, ăn cho thật đã!”. Tết trên tàu đầy đủ bánh chưng, thịt lợn, phòng đón xuân… bộ đội cũng hát hò, hái hoa dân chủ và xác định vài ngày nữa, nếu sóng to không thể vào đảo được, anh em sẽ cùng nhau hát qua bộ đàm giao lưu cùng lính đảo. Trên ấy, bộ đội còn có thể nhẩm tính, mặc định về các mốc thời gian, còn những chuyến tàu thì không…

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Học sinh nơi đất liền thực hiện nghi thức chào chú bộ đội. (Ảnh: NVCC)

Những người lính từng công tác trên Tàu 521 nhớ lại giây phút đón giao thừa tại đảo Đá Thị. Bộ đội trên tàu ở giữa trùng khơi, tàu và đảo leo lét hai đốm sáng giữa mênh mông biển đêm lộng gió, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ canh giữ biển trời cho quê hương vui vầy. Trên mũi tàu vẫn có những giọt nước mắt rưng rưng của những chàng chiến sĩ trẻ lần đầu đón xuân trên biển; những lời chúc năm mới nghẹn trong tiếng chập chờn của sóng điện thoại vời vợi yêu thương: “Mẹ yên tâm nhé, chúng con khỏe và đón Tết vui lắm mẹ ơi!”.

Bấy giờ, cùng với việc nổi lửa trên bếp, tất cả tàu đang làm nhiệm vụ đều kéo ba hồi còi dài đón chào xuân. Những âm thanh ấy trong phút giao thừa, với những người lính xa nhà vang vọng, thiêng liêng thao thiết. Xuân mới trên biển cả, sau lễ chào cờ trang nghiêm, họ sẽ phóng tầm mắt nhìn biển xanh, tàu cá. Trên nóc mỗi con tàu là cờ đỏ sao vàng tung bay. Như gặp quê hương giữa đất trời lồng lộng, như thấy tình thân ruột thịt hiện hữu giữa trùng khơi.

Kỹ sư Trần Vũ Thành, người chế tạo máy lọc nước biển thành nước ngọt và đã may mắn có hàng chục chuyến công tác đến với quần đảo Trường Sa, Nhà giàn DK1 tâm sự, đến với biển đảo dịp Tết thì ăm ắp nhiều kỷ niệm, nhưng anh nhớ nhất khi vừa bước chân lên tàu đã nhác trông thấy đội bếp đang chuyển từng lọ muối vừng rất lớn, đường kính dễ vài chục centimet còn chiều cao phải nửa mét lên kệ. Trước những cặp mắt ngạc nhiên, bộ đội giải thích: “Trong những chuyến sóng gió dữ dội, nhà bếp cần chuẩn bị chu đáo để nếu ai không ăn uống được gì thì còn có thể lót dạ chút cơm trắng với muối vừng, các đồng chí cứ trải nghiệm đi, rồi sẽ thấm…”.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Khoảnh khắc đẹp trong một triển lãm ảnh về Trường Sa. Ảnh: NVCC

Sau lễ tiễn đoàn công tác được tổ chức trang nghiêm, tàu bắt đầu rời cảng. Từng đợt sóng vây bủa dồn dập theo cấp độ tăng dần, trên ca-bin, sóng đánh mờ mịt cửa kính, các thủy thủ phải dùng gạt nước liên tục. Ai nấy đều choáng váng, cảm nhận được cơn say sóng nên vừa nãy còn phơi phới ngắm biển, chụp ảnh trên boong tàu giờ đã nhanh chóng trở về phòng.

Loa phát thanh nội bộ thông báo: “Tàu đang đi ngang sóng, tổ bếp chằng buộc vật dụng kỹ càng”. Bỗng có tiếng loảng xoảng rất lớn, âm vang đến cả tầng trên, tầng hầm… loa phát thanh tiếp tục vang lên, báo tin bữa tối sẽ chậm một tiếng so với dự định. Dường như ai cũng hiểu điều gì đã xảy ra. Tàu chỉ có bốn thành viên tổ bếp nấu ăn cho gần 100 đại biểu, công việc ấy thật chẳng dễ dàng, nhất là giữa mùa biển động. Anh không thể quên kỷ niệm đêm 31/12/2019, toàn tàu tổ chức đón giao thừa trên vùng biển Tư Chính. Có cành đào, cành mai bằng giấy, đèn nhấp nháy đủ mầu, hoa quả trà mứt từ các vùng miền. Trưởng đoàn công tác chúc mừng năm mới, lì xì các thành viên. Mỗi người, một tay giữ đĩa bánh kẹo trên bàn, tay kia vịn cho chắc, vừa cười vừa chống chọi cơn say. Trong chính khoảnh khắc ấy, trong mỗi người đều dấy lên niềm khát khao được trải nghiệm một đời sống như những người lính trên tàu, họ đầy vững vàng, mạnh mẽ.

Trong chuyến đi này, gần cuối hành trình, tất cả các đại biểu đều chứng kiến một tình huống khó quên. Đồng chí Nguyễn Văn Nhật, chỉ huy phó Nhà giàn DK1/12 đang có mặt trên tàu sau chuyến về phép thăm vợ sinh con. Anh nhận nhiệm vụ rời tàu, trở về nhà giàn bằng phương án bơi. Khi anh bước ra hành lang tàu, mọi người mới ngỡ ngàng biết người lính ấy còn có anh trai chính là đồng chí Đức, thuyền phó. Hai anh em ruột chung chuyến tàu nhưng ai cũng chất trên vai nhiệm vụ, tình cảm ruột thịt được thể hiện tiết chế lắm. Buổi ấy, họ mới chuyện trò với nhau lâu hơn chút. Đức căn dặn em mấy câu bằng giọng miền Trung ấm áp rồi chạy vội vào phòng lấy đôi găng tay mới tinh đưa cho Nhật.

Sau hiệu lệnh của thủ trưởng đoàn, Nguyễn Văn Nhật tự tin và mạnh mẽ lao xuống dòng nước. Mặt biển thẫm lại, sóng cồn cào dữ dội, niềm tin và sức mạnh con người gửi trọn vào một sợi dây nối tàu với Nhà giàn mà người chiến sĩ đang bám chặt, cố sức nhoài về phía trước. Cách đó ít phút, những bao hàng vừa ném xuống biển đã bị kéo đi cả trăm mét. Sợi dây người lính bám chặt để trở về “nhà” cứ neo mãi trong lòng người. Đó như sợi dây nối những mùa xuân. Giờ khắc anh từ lòng biển sũng ướt bước lên Nhà giàn như một bức tượng đồng đẹp đẽ và xung quanh như tỏa ánh hào quang, như có muôn vàn đóa sen thơm bung cánh. Người của biển lại về với biển. Trông anh lừng lững, oai dũng giữa biển xanh và ánh sáng mặt trời. Mọi người vào ánh mắt đồng chí Đức, anh trai Nhật, thấy ngời lên niềm tin cậy, hân hoan đến nghẹn ngào.

Tàu đã chở mùa xuân ra đảo
Một tấm thiếp của học sinh nơi đất liền chúc Tết bộ đội nơi đảo xa. (Ảnh: NVCC)

Bộ đội giờ có điện thoại kết nối mạng nhưng thời điểm Tết, nhiều tổ chức vẫn phát động phong trào cánh thư gửi đảo xa để lứa bộ đội đầu tiên ra thay quân đã nhận được ngay thư rồi. Xưa thư từ hiếm, nhiều người đọc chung một lá thư, bây giờ có khi một người nhận đến cả chục lá thư. Ấy vậy mà họ vẫn đọc chung. Chính trị viên của đảo là người tiếp nhận và chia thư về từng phân đội, khuyến khích anh em biên thư đáp lại tình cảm đất liền: “Em đã thấy một trời hoa nắng/ Ngay khi vừa nhắm mắt nghĩ về anh/ Ngày xa cách ánh nhìn như biển rộng/ Nhớ biên thư cho nỗi nhớ âm thầm”.

Những con tàu làm nhiệm vụ giữa trùng khơi là sợi dây yêu thương nối đất liền với đảo. Từng gói bánh kẹo, trà mứt vui xuân… những món quà ấm nồng giản dị và quý giá giữa bốn bề sóng lừng, gió mặn. Hương vị vùng miền mở ra xiết bao cảm xúc. Có những con tàu, đảo xa có Tết, và điều đặc biệt nhất đó là: Tết ấm nồng hình bóng quê hương./.

]]>
Mùa gọi đồng hành https://trithucdoanhnhan.net/mua-goi-dong-hanh/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3307

Mùa xuân, mùa của Tết và lễ hội, mùa sống mới của vạn vật, lại một mùa nữa trong đời sống thăm thẳm cõi người, rủ gọi chúng ta đi, thúc giục chúng ta lên đường…

Mùa đã gọi lên đường rồi đấy! Gọi ngay từ lúc ta thưởng cho mình những ngày nghỉ để sắm sửa Tết nhất. Trong cái ý ăn Tết, cách nói quen thuộc: Ăn một cái Tết, nghỉ ăn Tết mà các cụ gọi xưa nay ấy, dường như đã bao hàm cả nội dung chơi Tết, vui xuân.

Và đã trở nên một nghi thức đẹp của Tết, vừa Giao thừa là người ta đi hái lộc, xin lộc. Vậy là ngay sau thời khắc chuyển giao của đất trời, của thời tiết, của ý thiên nhiên và lòng người, từ trong không gian còn đêm tối, rất nhiều bước chân đã chọn cho mình một cuộc xuất hành. Để sáng ngày ra, mồng Một Tết quang quẻ, tươi tắn, sau nén nhang thành tâm bên mâm cơm cúng gia tiên và bữa sáng đầu năm quây quần, nhiều cụ, nhiều ông, bà, nhiều gia đình sửa soạn khăn áo phẳng phiu, là lượt ra lễ chùa, lên đình, đền, lên đường đi chúc Tết.

Những lượt đi ngắn, nhỏ đồng hành cùng xuân mới, đã khởi lên như lộc non trổ mầm trong mấy ngày Tết. Để từ lễ hóa vàng cúng tiễn các cụ và những người đã khuất sau quãng thời gian đón năm mới cùng con cháu lại trở về chốn yên nghỉ, từ những cánh đào nhạt dần sắc thắm đã bắt đầu lả tả xuống mặt bàn, trong ta lại mở rộng cánh cửa dẫn ra con đường vươn xa, tâm trí ta nao nức, sẵn sàng cho những chuyến rong ruổi, trải nghiệm giữa vô cùng non nước, con người.

Mùa gọi đồng hành
Không khí hội lễ bừng lên những tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba ảo diệu, huyền linh một không khí giao thoa, cộng cảm của trời, của đất nước và làng mạc. (Ảnh: Tùng Dương)

Đón chúng ta là không khí hội lễ bừng lên những tháng Giêng, tháng Hai, tháng Ba ảo diệu, huyền linh một không khí giao thoa, cộng cảm của trời, của đất nước và làng mạc, của thần và người, cùng sinh linh, cây cỏ. Có một dịp lễ hội của mỗi làng quê, để người dân dù đi xa ở gần, dù công thành danh toại hay giản dị cần lao, là nhà nghệ sĩ, bác giáo sư, ông quan to hay người bán hàng chạy chợ… cũng được ý thức về ơn nghĩa lớn lao của những giá trị thiêng liêng đã hòa trong trăm năm nuôi dưỡng phần tinh thần của cộng đồng quê hương mình. Và ta được đến với những làng quê ấy của bạn hữu. Cũng như, nhiều người con xa quê không chỉ hưởng cái Tết chung cả nước, mà vào dịp lễ hội làng mình, cũng thu xếp trở về, hay nán lại gia đình, cùng với làng với họ “ăn nốt” cái Tết của làng rồi mới lên đường, trở lại nhịp đời thường công danh, sự nghiệp.

Thời buổi người khôn của khó, bóng ma dịch bệnh vẫn còn vất vưởng “ám quẻ” con người ta trong từng thông tin suy giảm của kinh tế, bất ổn trong xã hội, thì thời gian thảnh thơi vui chơi cũng phải gia giảm. Nhiều người đành phải vắng mặt trong dịp “Tết làng”, thậm chí kể cả Tết Nguyên đán, cũng thôi thì nhớ về ông bà, bố mẹ trong giờ tăng ca hay phút vui xuân gọn gàng nơi công xưởng. Những khó khăn mức sống còn dai dẳng, cũng có ảnh hưởng đến sức mua, sức tiêu và sự thụ hưởng như trong những ngày Tết vừa rồi. Nhưng dường như không có gì ngăn được nguồn sinh khí của sự phục hồi cả về kinh tế, vật chất lẫn trong tâm thế mọi người. Để rồi thì “tùy gia phong kiệm”, biết vừa, biết đủ, ai ai đó vẫn cùng có được những cái Tết vui, Tết ấm hợp với hoàn cảnh. Và cả những chuyến đi, những cuộc du xuân, vẫn cần phải có, như một phần đời sống vậy, một cuộc sống không chỉ nước uống, cơm ăn, mà còn phải biết tưới tắm cho tâm hồn bằng những trải nghiệm đó đây. Vì thế mà bảo rằng, no bụng, ấm thân đã rồi hẵng nghĩ đến việc du hý, thì cũng đúng ở cái lẽ phải lo vật chất, dựng nền tảng, đủ đầy mới có thể vươn dần lên đỉnh tháp nhu cầu mà thưởng thức văn nghệ, đi chơi đi lượn này kia, nhưng ngẫm thêm ra thì đời mỗi con người ta, biết thế nào cho đủ, biết bao giờ mới đủ hết? Mà nhu cầu, tham vọng thì khác nhau lắm lắm! Lại ở vào cái bối cảnh mà đời sống biến đổi chớp mắt, hôm nay đã vậy, ngày sau chưa biết thế nào. Cho nên, cũng đừng để tối tăm mặt mũi cắm cúi lo cái ăn cái mặc, rồi một chút ngẩng lên nhìn trời cao, đất rộng, một chuyến rời chân rong ruổi đường xa cũng không có nổi!

Mùa gọi đồng hành
Du khách thập phương nô nức đi lễ Đền Hùng để tri ân công đức Tổ tiên và cầu một năm mới an lành trong năm Quý Mão 2023. (Ảnh: Ngọc Tiến)

Quả là như vậy, nên bao nhiêu người đã hẹn nhau khai xuân, du xuân một chuyến, mở đầu cho một năm làm lụng sao cho hanh thông, rộng mở. Có xởi lởi, thong dong những ngày đầu xuân thì vào năm mới được chảy trôi, thuận lợi. Đấy là cái nghĩ thông thường, phổ biến trong nhiều người. Và những cuộc xuất hành cứ tơi tới, cứ liên tiếp. Như đã thành truyền thống, những dòng người lại trảy hội chùa Hương, hội xuân Yên Tử, hành hương về chùa Bái Đính, du ngoạn thắng cảnh Tràng An, rồi thì đi lễ đền Đức ông ở Cẩm Phả, đi lễ đền Bà chúa kho bên Bắc Ninh, Bắc Giang, tìm lên lòng hồ sông Đà lễ đền Thác bờ, đi Phủ Giày, đền Sòng, lên Bảo Hà, Đồng Mỏ… thăm viếng chốn thờ tự những ông hoàng bà chúa, các cô các cậu…, lên Ba Vì lễ thánh Tản Viên và hành hương về chốn tổ ngưỡng vọng oai linh các vua Hùng, tri nhớ ơn sâu lớp lớp người xưa khởi dựng nước non và nhắc nhớ con cháu sau này chung lưng gánh vác từ ý nghĩa cội nguồn của những truyền thuyết lấp lánh.

Mấy năm ròng dịch bệnh, hội hè lễ lạt khép lại, trì hoãn, thu hẹp quy mô như một yêu cầu tất yếu cho cuộc chiến cam go phải bảo đảm an toàn sinh mệnh con người. Năm nay, các lễ hội từ những miền danh thắng của nước non tươi thắm sẽ lại bừng lên, đón gọi. Và những bước chân hành hương cung kính, thành tâm sẽ bồi hồi trở lại, tìm về, như để tiếp thêm cho mình nguồn năng lượng từ truyền thống, từ di sản trân quý đang tiếp tục lưu truyền trong cái thời tưởng chừng đời sống cá nhân và cả cộng đồng đã chìm lấp trong tốc độ vun vút lóa mắt của số hóa, của dịch vụ trang bị đến tận bàn uống nước mỗi nhà, của những trào lưu phát ngôn và những khám phá vũ trụ.

Trên những bước chân du xuân, xa thì có những miền đất lớn, những không gian rộng rãi của núi cao, sông dài, bờ biển bát ngát, người ta tìm đến chiêm bái các bậc thánh thần biểu tượng cho muôn sắc uy linh của khí phách, của văn hóa dân tộc. Gần thì thân mật, gần gũi, nhưng vẫn luôn thiêng liêng, thành kính, là lễ hội làng mình, là những nghi lễ nghiêm cẩn nơi đình trên, miếu dưới, rồi thì thôn bên, xã bạn, quanh quanh những háo hức của hội lễ trong vùng. Mùa xuân, mùa lễ, mùa hội, mùa hành hương, ngưỡng vọng, gọi những con người còn đập trong mình ít nhiều đời sống tâm linh, những con người sống có tín ngưỡng, bước đi và thắp lên ngọn lửa nhỏ ấm cúng của mạch chảy tâm linh, tín ngưỡng ấy.

Rộng hơn thế, là bước đi nương náu tâm hồn vào những giá trị cao quý của văn hóa dân tộc, của đạo lý uống nước nhớ nguồn. Và xa nữa, cũng chính là cuộc trải nghiệm đặc sắc của mỗi con người, nhóm người, đoàn người chúng ta vào không gian bảy màu của các di sản văn hóa nghệ thuật với diễn xướng, kiến trúc đình đền, chùa chiền, với điêu khắc dân gian, với những trò vui lôi kéo làm sinh sôi thêm tình cảm, nhân lên sự cộng hưởng cộng đồng. Không có gì phải băn khoăn nữa, khi ta gọi những không gian nơi ta tìm đến ấy, là bảo tàng sống lớn lao và sinh động của văn hóa, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân tộc, đầy thiêng liêng, gắn bó, thật hoành tráng, lắm màu nhiều vẻ, có sức cuốn hút kỳ lạ và rất đỗi tinh tế, tài tình!

Mùa gọi đồng hành
Những lượt đi ngắn, nhỏ đồng hành cùng xuân mới, đã khởi lên như lộc non trổ mầm trong mấy ngày Tết.
(Ảnh: Bùi Văn Doanh)

Lại cùng với những phần lễ uy nghiêm và phần hội tưng bừng ấy, lòng người mở thêm ra với sơn thủy hữu tình, sơn thanh cảnh tú, với gấm vóc cỏ hoa đang phủ dài trên những đường đất, đồi gò. Chân ta du xuân, mắt ta ngắm nhìn tán cổ thụ ngạo nghễ che phủ mái đình hay một thân cành mảnh dẻ cheo leo nơi vách núi. Miệng ta xuýt xoa khi thấy những mỏm đá nhô lên trên mặt hồ sương khói. Tay ta chỉ cho những bằng hữu đi cùng, có nhìn thấy đằng xa kia, một vừng mây lớn tượng hình dáng người ảo mờ dải áo bay bay đang hiện ra phía rừng thông, trên mái chùa. Và lòng ta càng nôn nao nghe tiếng suối chảy ào ạt, nhìn gió mạnh đưa hơi sương trắng mịt mù quất như mưa trên một sân thiền viện… Du xuân là như thế, khi lòng người hòa nhập với thiên nhiên, gần gũi hơn với những chuyển động của trời đất, thời tiết, lắng nghe nhiều hơn vào những tiếng vọng của mùa. Hồn người lại có phần trở lại ngây thơ, hồn hậu mà đọc những ngôn ngữ của tự nhiên, gặp một phần hoang sơ, dung dị và lành mạnh trong bản chất người của mình, đâu đó vẫn đang mượn thiên nhiên mà nương náu.

Nhưng, đón chúng ta đi qua những nẻo đường, có thể nào không phải là những người đã bắt đầu xuống đồng, cặm cụi cúi mình trong gió ẩm ướt, không phải những chiếc xe máy chở hàng đã lam lũ trở lại nhịp mưu sinh thường nhật, không phải đôi ba người và nay đã là cả những chuỗi người lại nâng trên tay những cành đào nhỏ, những bó đào dăm lấm tấm đỏ nơi ngã ba, ngã tư phố phường, bán cho người muốn chưng hoa đón Nguyên tiêu. Có thể nào, chờ đón ta, để chúng ta được nhìn thấy, nghe, cảm nhận và in dấu trong suy tư của mình, những ngôi nhà cũ mới đủ kiểu, những ngõ những đường, những nhà hàng, quán xá, đèn đóm, xe cộ chen chúc, và cầu vượt cao tốc, những khu công nghiệp lớn, hay một xóm nhỏ heo hút đồng xa… Trên những con đường ta đi hội, ta hành hương, hoặc không phải thế, ta đi làm, ta bước vào ngày mới với một kế hoạch nho nhỏ nào đó, từ bất kỳ hướng nào, sẽ chờ đón chúng ta, luôn là cuộc sống náo nhiệt, ồn ã, tưng bừng, phấn khởi, hoặc lầm lụi, khuất lấp những muộn phiền. Và được nhìn, trông, bước dần vào trong ấy, những nẻo đường không bao giờ đi hết, những câu chuyện và thân phận không thể nào biết hết, hiểu hết, ấy là những hạnh phúc bâng khuâng và cả xót xa mà chúng ta, làm con người hiện hữu trong đời sống này, được ân hưởng.

Mùa xuân, mùa của Tết và lễ hội, mùa sống mới của vạn vật, lại một mùa nữa trong đời sống thăm thẳm cõi người, rủ gọi chúng ta đi, thúc giục chúng ta lên đường. Cùng với mùa, bước chân ta đến đâu cũng có mùa đồng hành, hướng về đâu cũng có mùa vẫy gọi. Và ở rất nhiều cảnh ngộ, trong tâm trạng của chúng ta, dù phấn khích, náo nức, hay khi hồ nghi, lúc chán chường, vẫn có mùa thổi từng cơn gió lành và gieo xuống những chờ đợi./.

]]>
Mắt hồ trong như mắt mùa xuân https://trithucdoanhnhan.net/mat-ho-trong-nhu-mat-mua-xuan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:16 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3874

Mỗi mùa nước cạn và trong, nhìn xuyên mặt hồ, vẫn gặp dấu vết làng bản xưa. Những đường quanh co, những mảng nhô lên, lõm xuống như mâm xôi, như lòng chảo…

Cô gái xứ Mường chở tôi bằng xe máy, băng đèo, vượt dốc, từ bản của cô đi khắp vùng Đà Bắc. Thỉnh thoảng, cô lại chỉ tay vào một chòm xóm nào đó mà nói: “Người dân ở đây cũng như nhà em, cũng từ lòng hồ đi lên sườn núi”. Thoạt đầu, tôi cứ giật mình thon thót. Con cháu vua Thủy Tề hay sao mà từ lòng hồ đi lên được? Thực ra, ấy là cách nói dân dã, nôm na. Lòng hồ trước đây vốn là một thung lũng lớn, cả xóm Mường trù phú định cư lâu đời. Khi có công trình thủy điện, làng bản đã di cư. Những ngôi nhà sàn lớn phải gấp rút tháo dỡ, may mắn thì dựng được ở đất mới quanh vùng, nhà nào biến cố đành thắt lòng thắt dạ mà bán đi. Mỗi mùa nước cạn và trong, nhìn xuyên mặt hồ, vẫn gặp dấu vết làng bản xưa. Những đường quanh co, những mảng nhô lên, lõm xuống như mâm xôi, như lòng chảo…

Xóm Đá Bia (xã Tiền Phong, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình) chiều cuối năm, trên bậc dốc dẫn lên từng ngôi nhà sàn là nồi rượu đang chưng cất tỏa men say sưa, váng vất. Thấy khách lạ ngang qua, trông hay hay con mắt, bà con hồ hởi vẫy, vào mời thử rượu. Rượu hãy còn nóng, rót tràn trề trông như cốc nước dừa. Trộm nghĩ, uống nhiệt tình bà con sẽ vui nên tôi làm một hơi, cạn sạch. Bà con tròn mắt hỏi Lò Thị Trang, cô hướng dẫn viên du lịch, người địa phương: “Ở đâu ra cái người này thế?”, rồi tất cả cùng cười, ấm nồng và sảng khoái. Từ bậc dốc ấy, phụ nữ Mường cứ vừa rót rượu vào can, vừa để mắt chăm lo cơm nước, nhà cửa… Loanh quanh có mấy con gà lông mướt mượt lục tục mổ thóc gạo rơi vãi, chắc cũng say cả hơi men nên cử động rất mơ màng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Lòng hồ sông Đà sớm chiều vương vất khói sương. (Ảnh: Lữ Mai)

Những ngày sau đó, khi đã rời xa, tôi vẫn luôn nhớ từng bậc dốc ngả nghiêng hơi rượu. Nếu bước tiếp thì sẽ lên nhà chính, bước xuống thì ra đường. Ngồi nguyên đó, bếp ánh lửa bập bùng, hướng mắt về phía trước, nhìn xuyên qua đường đất thì gặp cả lòng hồ sông Đà sớm chiều vương vất khói sương. Cũng vẫn gần ngay những bậc dốc đang bắc nồi rượu là các gian hàng “tự giác”. Bà con Đá Bia kể rằng, cách đây cả nửa thế kỷ, từ ngày còn quần tụ dưới thung lũng, đã có những gian hàng như thế rồi. Chẳng cầu kỳ gì cả, gian hàng đóng bằng tre nứa trong rừng, lợp lá cọ, ai có nông sản hay đồ gì trong nhà cần bán cứ viết giá lên tờ giấy dán vào hoặc để đồ chặn lên, ngay cạnh là cái giỏ nan. Đi làm nương cả ngày, tối mịt về ghé qua, không thấy đồ, thò tay vào giỏ mà lấy tiền về thôi. Tuyệt nhiên, chưa bao giờ xảy ra thất thoát, hiểu nhầm. Gian hàng bắt nguồn trong gian khó, các nhà đi làm nương xa nhà, lắm khi bắt cả đứa lớn nghỉ học trông những đứa bé, bìu ríu, lăn lóc trên chòi canh nương, nhà có gì muốn bán để thêm thắt đồng tiền bát gạo, đành cậy nhờ, dốc cả vào lòng tin trong thiên hạ.

Một buổi sáng, tôi bước lên con thuyền neo dưới bến, tự mở dây và cứ thế trôi trong sương. Trang từng nói: “Nước không lạnh như chị tưởng, chạm tay xuống sẽ thấy ấm lắm, ấm như đun ở bếp lên!”, nhưng tôi nào dám chạm tay. Tôi ngó xuống mặt hồ, cảm giác gặp những đôi mắt nhìn lên trời không chớp, muôn nếp nhà khói vẫn tỏa thành mây. Thuyền trôi qua sương, chạm vào bè cá của người dân. Cậu thanh niên đang lúi húi trên đó cất lời: “Chị không về được đâu, chờ em cho cá ăn xong em nổ máy thuyền em, kéo thuyền chị về”. Thức ăn của cá nuôi lồng là những mẻ cá nhỏ nhảy tí tách, cong cớn như phiến bạc…

Ngày xưa, lòng hồ là thung lũng trù phú của xóm Mường với hàng trăm nóc nhà sàn năm gian rộng rãi. Ngày mùa, lúa ngô trĩu trịt theo chân người từ nương rẫy về bản. Những điệu hát được cất lên trong lễ mừng cơm mới. Từ khi có công trình thủy điện, xóm Đá Bia cũng như nhiều làng bản khác phải di cư. Gia đình cô gái Mường, Lò Thị Trang dắt díu, bế bồng vào tận vùng kinh tế mới trong Tây Nguyên. Khí hậu khắc nghiệt, chưa kịp thích nghi thì cả người già và trẻ nhỏ trong nhà đã lăn ra ốm, thuốc thang chạy chữa liên miên. Đại gia đình lại quyết định quay về quê cũ. Đụng đến tiền chẳng có tiền, đụng đến gạo thì hết gạo, bố mẹ Trang cố chắt bóp từng đồng, khăn gói tàu xe về trước. Họ dựng lều ở lưng chừng núi, phát nương trồng lúa ngô, đến mùa thu hoạch, bán hết mới quay vào đón cha mẹ già và con nhỏ đoàn tụ. 

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Một gian hàng “tự giác” tại xóm Đá Bia. (Ảnh: Lữ Mai)

Giờ đây, thung lũng xưa đã thành lòng hồ sâu thẳm in bóng non cao. Trong câu chuyện với khách xa, Trang và bà con nơi đây đã không còn gọi lại tên thung lũng. Họ chỉ nói, mình là dân từ lòng hồ đi lên. Như thế có nghĩa, trong thái độ sống, hoặc là họ đã chấp nhận được thực tế khác xưa; hoặc cũng có thể họ đã cố chôn sâu nỗi niềm trong tâm khảm, không nỡ mang tiếc nuối, dằn vặt vào đời sống thường ngày. Một cách chôn sâu để mà bước tiếp. Thung lũng xưa, có người đi mãi, có người về lại, nhưng không ai từ vùng khác đến định cư. Hơn bốn mươi gia đình “từ lòng hồ đi lên” bắt đầu cuộc sống mới trên sườn đồi. Họ cùng nhau bạt núi, san nền làm nhà cửa, chuồng trại, vườn tược. Khó khăn, cực nhọc, nhưng sức sống chưa bao giờ vơi cạn ở xứ Mường.

Mẹ của Trang, bà Yệu, thuở nhỏ không được bố mẹ cho học hành đến nơi đến chốn, phải nghỉ học giữa chừng trông đàn em nheo nhóc trên nương ngô và trở thành lao động chính trong nhà. Ước mơ đèn sách trở thành một lời thề, một lời hứa bà đưa ra làm điều kiện với bất cứ người đàn ông nào định hỏi mình làm vợ. Nhờ đó, khi lấy chồng, con cái bà Yệu được khuyến khích học hành, con trai cả công tác trong ngành công an và Trang, con gái út tốt nghiệp ngành sư phạm, đang theo đuổi đam mê phát triển du lịch. Lò Thị Trang mang vẻ đẹp đặc trưng, cuốn hút của con gái xứ Mường với dáng dấp cân đối, khỏe mạnh, đôi mắt trong veo và nước da nâu giòn, ửng sáng. Cô và hai anh trai có tuổi thơ rất vất vả. Từ khi đại gia đình từ Tây Nguyên hồi cố, những đứa trẻ sống cùng ông bà nội, bố mẹ suốt mười ba năm lênh đênh trên thuyền bán hàng khắp hồ sông Đà.

Tốt nghiệp ngành sư phạm đúng lúc gia đình gặp biến cố lớn, bố bị gẫy xương, vôi hóa cột sống, mẹ bị tai nạn phải mổ tới ba lần, mãi mới đi lại được, Trang gác lại ước mơ, đi làm công nhân hơn một năm rồi trở về Đá Bia chăm sóc bố mẹ. Cô trải qua nhiều công việc, từ đi dạy hợp đồng ở trường học, tới nuôi cá trên nhà bè, làm nương, bán hàng online, hướng dẫn viên du lịch địa phương. Vốn mê du lịch, lại được một doanh nghiệp xã hội hỗ trợ cho vay 50 triệu đồng để phát triển du lịch cộng đồng, Trang bàn với gia đình mở dịch vụ lưu trú (homestay). Chỉ mẹ ủng hộ, tin tưởng cô con gái út, bố cứ can ngăn: “Thân con gái, cứ lo dạy học ổn định rồi lấy chồng, sinh con, đừng mơ mộng!”. Rồi cô gái xứ Mường vẫn tìm cách thuyết phục gia đình thế chấp sổ đỏ, vay hai trăm triệu ngân hàng. Có vốn dắt lưng, Trang gọi máy xúc, máy cẩu san nền, tìm mua lại nhà sàn của người dân về dựng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Mắt hồ trong như mắt mùa xuân

Thung lũng xưa, có người đi mãi, có người về lại, nhưng không ai từ vùng khác đến định cư. (Ảnh: Lữ Mai)

Tiền bạc vừa trao tay, nhà đang chuẩn bị tháo dỡ thì gặp đúng trận lũ lịch sử tháng 10/2017, đường sá sạt lở, cả tháng không thông được, cô gái mới ngoài hai mươi tuổi quyết định không trông chờ thời tiết nữa mà vẫn thuê thợ dỡ nhà, đưa từng “mảng, miếng” xuống thuyền, theo đường thủy chở về bến nhà mình, lại chật vật bốc từ thuyền lên. Thợ chỉ lắp dựng cơ bản, toàn bộ nhà cửa tự tay Trang thiết kế lại, mở thông các gian, đóng từng cánh cửa, bàn ghế, xây sửa bếp núc, vườn tược… Bây giờ, homestay mang dấu ấn nàng sơn nữ xứ Mường với cái tên thơ mộng “Lake View” trở thành điểm thu hút khách du lịch bậc nhất xóm Đá Bia. Cả xóm có năm hộ làm homestay nhưng các hộ dân khác đều tham gia vào tổ nhóm ẩm thực, văn nghệ, phương tiện xe ôm, hướng dẫn viên địa phương… phục vụ khách du lịch nhiều dịch vụ phong phú: Trải nghiệm lao động sản xuất, văn nghệ thôn bản, tắm thuốc, bè mảng, xe đạp, leo núi thám hiểm, đua thuyền kayak… Du lịch khiến bản Mường khởi sắc hơn, lấp lánh hơn.

Ngay cả khi ánh bình minh tỏa rạng, khói vẫn chưa tan mà cứ quyện lại giữa xanh trong mây nước. Sau tiếng quẫy lõm bõm của đàn cá tranh mồi, từng đàn vịt trắng phau rời nhà bè rẽ làn khói trắng bơi về bến nước. Thỉnh thoảng, có chợ sớm, bà con chòm xóm ríu ran từ mờ sáng. Mỗi nhà mang vài món hàng đi bán, nhân thể mua sắm thêm đồ sinh hoạt trong gia đình. Chợ họp trên thuyền. Con thuyền chính là một hiệu tạp hóa với đầy đủ nhu yếu phẩm cần thiết, có cả gian bán quần áo, đồ dùng… Ở khoảng trống gần mũi thuyền là để bà con bày bán thêm. Chợ dưới thị trấn thì xa lắm, ngót nghét bốn chục cây số, nên “chợ thuyền” mới là sinh hoạt chính ở đây. Theo con nước, chiếc thuyền tạp hóa đỗ mỗi ngày một bến, quanh lòng hồ sông Đà, định kỳ sẽ quay lại. Trẻ con mong ngóng chợ lắm, để được nhón tay xin bố mẹ tiền lẻ mua bánh rán, kẹo ngọt… Người già có khi chả mua bán gì, vẫn cứ mong chợ, để lụi cụi chống gậy bước lên thuyền lớn, ngắm người qua kẻ lại.

Nơi đây còn nhiều dấu ấn mộc mạc, chân thành. Cũng chính bà con xứ này ngỏ lại với tôi rằng, họ là người Mường Ạu Tá, một nhánh của Mường Bi. Thuở xưa, dân khắp vùng Tây Bắc cứ đồn thổi, Ạu Tá là nhánh Mường mạnh nhất về bùa ngải. Đi đâu hễ gặp người xứ này là đồng bào miền xuôi, miền ngược đều dựng hết tóc gáy. Hầu hết sách báo thường viết sai, thành Au Tá, Ao Tá… “Ạu” ở đây có nghĩa là “ông”. Chuyện chung quanh hai chữ Ạu Tá còn dài, mà những điều hay nhất và sâu nhất, hẳn rằng tôi chưa kịp biết.

Tôi hỏi bà Yệu, mẹ của Trang về bùa ngải, bà cười rất hiền, bảo rằng trong hư có thực, trong thực có hư. Bà từng chứng kiến một người dân nghèo lên nương, lúc về qua nương nhà khác có hái quả bí, định mang về cho đám con đông, và có lẽ cũng tặc lưỡi rằng nương bí lổn nhổn như cả trăm đàn lợn con kia, lấy một quả bõ bèn gì. Thế rồi, kỳ lạ thay, người ấy lại cứ ôm quả bí, bước vòng quanh nương, dấu chân nọ chồng lên dấu chân kia, sang tận ngày hôm sau mới có người từ xóm lên “giải” được. Người đàn bà nghèo cứ một mực cho rằng, rành rành trước mắt là đường về nhà đó thôi, sao lại quẩn quanh nương bí. Rồi nhà nọ, chẳng hiểu có “ếm” gì để giữ của không mà trời mưa gió, cả nhà đi nương chưa về, mẹ vợ chạy sang rút hộ quần áo vào kẻo ướt, lúc cả nhà trở về thấy bà mẹ vợ đứng thộn dưới mưa, trên tay là mớ quần áo ướt sũng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Còn rất nhiều dấu ấn mộc mạc, chân thành ở nơi đây. (Ảnh: Lữ Mai)

Riêng bùa yêu, là ma trận thẳm sâu, ai cũng muốn né đi, không nói. Nhưng, hầu hết người xứ Mường đều cho rằng, mọi sự luôn có cái giá phải trả, nhất là ép uổng trái lương duyên, gây họa cho người. Cái giá ấy rồi thì ai cũng nhìn ra cả, cuộc đời còn dài, chạy đâu cho khỏi trời xanh. So với các nhánh Mường khác, người Mường Ạu Tá có trang phục, ngữ âm khác biệt hơn, nhìn qua là biết. Đặc biệt, đám tang Mường Ạu Tá đến giờ vẫn chia làm hai nhánh. Một nhánh sẽ dùng trống, chiêng, xòe “hoi” nhộn nhịp. Một nhánh u ám, lặng yên. Tương truyền, nhánh lặng yên u ám xưa kia thuộc họ quan lang giàu có, nhà có người mất thì làm đám tang to nhất vùng, chiêng trống vang xa làng bản bên còn nghe rõ. Nhưng cũng trong đám tang đó, họ bị trộm hết trâu bò, của nả mà không biết. Từ bấy, họ giữ lời nguyền về sự im lặng, không chiêng trống.

Dù nhánh nào thì những ngôi mộ xứ Mường đều có mái che như một ngôi nhà, đầy đủ đồ đạc như lúc người còn sống, những loài cây người qua đời từng thích cũng được trồng quanh mộ. Tôi đã đi thăm nơi an nghỉ của người Mường, gặp những ngôi mộ chung quanh trồng rất nhiều chanh, ớt, rau gia vị, cây dược liệu… và cứ khôn nguôi hình dung về sở thích của từng người đã khuất. Những công trình lớn trong nhà như chuồng trại, bè cá… không làm thật được thì thu lại thành mô hình rất tinh xảo, sinh động. Ngay cả khi người đã nằm sâu dưới tầng đất, cây cối, vật dụng vẫn kể chuyện lại với cuộc đời này. 

Ẩm thực Mường Ạu Tá cũng là nét đặc sắc không thể lướt qua, nhưng kể cho đầu cuối, đủ đầy thì không hề đơn giản. Nếu để lựa chọn, có lẽ đầu tiên và cuối cùng, tôi sẽ nhắc tới món bánh nẹt làm từ ngô hoặc sắn. Ấy là món ăn vào mùa giáp hạt của đồng bào, khi trong nhà eo hẹp lương thực. Bánh đơn thuần từ bột ngô, sắn nhưng gói ghém sự tảo tần, khéo léo và tinh tế của phụ nữ. Ngô già đẫy nắng đỏ au được ngâm rất công phu với phương cách bí truyền, giã nhẹ, chà xát cho bong sạch lớp vỏ bên ngoài mới cho vào hấp. Xong xuôi, chia ngô làm đôi, một phần giã mịn thành bột, phần kia giã rối, cuối cùng trộn lẫn vào nhau. Phụ nữ Mường giải thích, làm thế vừa tăng vị, vừa tăng độ tơi xốp, miếng bánh không bí bách, khô cứng. Những chiếc bánh hình tròn, hơi dẹt, trăm cái như nhau được hấp lên trước khi chiên rán. Dung dị, đơn thuần mà thơm ngon khó cưỡng. Bánh nẹt làm từ bột ngô vị ngầy ngậy, nồng nàn, no đủ. Bánh nẹt làm từ bột sắn hoang hoải, ngai ngái, gần gặn như ký ức nhọc nhằn.

Từ xứ Mường, tôi cay mắt nhớ về cha mẹ, về những khoảnh đồi hoang chờ tay người phát quang, nhổ cỏ lộ ra từng mảng đất nâu vàng trồng đầy khoai sắn. Cũng trên mảnh đất đó, hoa đào đã nở giữa núi đồi trông xa như mảnh chăn hồng phấp phới. Tôi kể với Trang về ký ức của mình, cô nói, hóa ra ở miền nào trên đất nước mình thì cũng thế, yêu thương và nuối tiếc cứ dâng đầy./.

]]>