nhà thơ đoàn văn mật – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg nhà thơ đoàn văn mật – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Chiều đông thương khói trên đồng https://trithucdoanhnhan.net/chieu-dong-thuong-khoi-tren-dong/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1696

Nhiều khi, thấy thương, thấy nhớ, thấy tiếc những ruộng đồng mà ta không thể nào quên lãng. Về làng, đâu đó đã mọc lên nhà cửa, dự án… thế mà vẫn cứ nhớ từng mảng non xanh, vàng ruộm và khói đốt đồng bay lên.

Mùa này, hễ có việc rời khỏi phố thị ồn ào đông đúc, ra tới vùng ngoại ô đã thấy hun hút, thênh thang một bầu không khí khác biệt. Những cụm cỏ lau, có gà dại ken dày trên đất trống. Những thửa ruộng sau mùa gặt trơ gốc rạ, ngun ngún khói đốt đồng. Thứ mùi ngai ngái, hoai nồng, âm ấm thoảng trong không gian, gặp sương gió cứ quyện lại vừa gần gụi, vừa thân thương. 

Và lại nhớ làng. Nhớ những chiều trẻ trâu thơ thẩn trên cánh đồng khô khốc bắt cào cào, muồm muỗm. Nhớ từng cơn gió đầu đông hun hút thổi qua những bụi duối cổ thụ phía Tây làng. Nhớ ai đó đi đốt rạ vẫn lom khom tát từng vũng nước đọng để bỏ giỏ chút tôm cá, cua ốc mang về cho kịp bữa chiều. Bao nhiêu lấm láp, gian khó và mơ mộng đã mông lung bay lên cùng làn khói ấy. Khói ngai ngái, cay cay vương vất trên đồng. Trẻ trâu ngày xưa vừa chăn trâu, cắt cỏ, vừa rủ nhau tìm hang chuột đồng để vây bắt. Sau mùa vụ, lũ chuột con nào con nấy béo tròn núc ních, trốn kỹ trong hang. Bắt được giống chuột ấy mà nướng lên thơm lựng bằng chính rơm rạ trên đồng thì khỏi phải nói. Mùi thịt thơm, mùi khói, vị ngọt thơm bùi béo đủ xoa dịu sự cồn cào đói rét. 

Bây giờ, kể lại câu chuyện này, ngay cả với trẻ nhỏ thôn quê, có thể chúng cũng thấy xa xôi, lạ lẫm. Là bởi bây giờ, trẻ con không thế nữa, và ruộng đồng cũng đã khác xưa. Làm sao có đám mục đồng chạy chơi khắp chốn, rồi nhặt nhạnh, đuổi bắt và ăn tất tật những gì có thể ăn. Những bông lúa nếp sót lại hơ lửa nổ bỏng trắng ngần, thơm thơm. Những con muồm muỗm béo ngậy, giòn tan. Hai cái đùi chuột đồng căng bóng, vàng ruộm những thịt là thịt. Rồi thì cua, ốc, ếch, cá, tôm… gì cũng nướng. Thành ra, khói đồng đâu chỉ riêng khói rạ rơm mà còn ôm ấp cả khoảng trời tuổi thơ đầy bao dung, thơm thảo và mơ mộng. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Bao nhiêu lấm láp, gian khó và mơ mộng đã mông lung bay lên cùng làn khói ấy. Khói ngai ngái, cay cay vương vất trên đồng. (Ảnh: Vũ Anh Dũng)

Có lúc, ngồi ven chân ruộng, ngắm khói chiều bảng lảng bay trong hoàng hôn, tưởng tượng ra muôn dáng hình từ ngọn khói, lũy khói, bụi khói ấy. Một lùm cây um tùm. Một nàng tiên đang múa. Một mái đình cổ kính nét cong cong. Rồi càng về tối, mọi thứ sẽ tan loãng ra, hòa vào gió về tít tắp cuối chân trời. Dắt trâu về, thắc thỏm nhìn cái bụng hẵng chưa no, lộ ra những dẻ xương sườn gầy guộc, trẻ nhỏ bắt đầu lo bị mẹ cha trách mắng mải chơi không lấy cỏ cho trâu. Mùa này, trâu gặm ruộng khô biết bao giờ cái bụng tròn căng như cái trống. Ngay trong bước đi có vẻ đủng đỉnh, thảnh thơi kia cũng chứa đựng sự nhẫn nại và chịu đựng. Ở từng chòm xóm, nóc nhà, khói bếp bắt đầu bay lên cùng mùi cơm mới, mùi cá kho lá nghệ lá riềng.

Có nhà cầu kỳ, mùa này còn tát đầm, vét sạch đến từng con rô con giếc kho nồi lớn nồi bé rồi mới đem phơi bằng nong, bằng nia ra giữa sân nhà. Nắng hanh, cá kho rút sạch nước, thành loại cá khô có thể ăn liền. Đó là món ăn đưa cơm trong những ngày mưa dầm giá rét độ giêng hai. Bấy giờ, chỉ cần lấy bọc cá gói kỹ gác trên gác bếp xuống, gắp dăm con là đủ bữa ăn. Cá mặn, ngấm hết mắm muối nên phải ăn dè. Dắt trâu vào ngõ, ngang qua nhà nào đang đặt nồi kho cá làm món để dành ấy là biết ngay. Khói bếp bay lên cùng mùi thơm của riềng của nghệ, của lá găng, lá gấc. Dù trong cảnh thiếu thốn, đói nghèo, khói rạ rơm trên đồng hay trong từng gian bếp nhỏ vẫn thoảng dư vị ấm nồng, an ủi, chở che. 

Sáng sáng, qua từng lũy tre, bờ giậu, lúc sương còn chưa tan, không ai đốt đồng cả bởi rạ rơm hẵng ẩm ướt. Nhưng trong làn sương mỏng manh vây bọc ngôi làng nhỏ, trong hơi nước bốc lên từng những ô, những vũng đọng lại trên mặt ruộng, nhánh kênh… vẫn mang mang hơi khói. Thật khó diễn tả cho trọn vẹn mùi khói vương vấn, lưu luyến, quẩn quanh ấy. Khói đồng như những vòng tay mơ hồ, trìu mến tỏa lan trong không gian yên ả của làng quê. Khói đồng như bộ xiêm y huyền hoặc, mong manh mùi lúa, mùi cỏ quấn quýt quanh làng. Khói khiến vẻ mộc mạc, ảm đạm mùa đông thêm phần dịu lắng, ảo mờ hơn. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Người nông dân đốt đồng sau khi mùa vụ đã xong, và bao giờ cái cảm xúc khi ấy cũng nhẹ nhõm, khấp khởi. (Ảnh: VnExpress)

Trong nông nghiệp, gốc gác của việc đốt đồng rất thực tế. Đầu tiên đó như một cách dọn dẹp từng thửa ruộng, cho cháy rụi hết những gốc rạ, cỏ bụi, rác rưởi… đồng thời cũng diệt trừ sâu bệnh, để lại lớp tro màu mỡ trên mặt ruộng. Nhưng khi ruộng đồng còn lớp tro mới thì không gieo trồng được gì cả, bởi nhiều hoạt chất chưa qua quá trình ô-xy hóa có thể gây phản ứng, “xót” cho cây trồng. Nghĩa là, sau đốt đồng, lớp tro mùa vụ cần ngấm đủ nắng mưa, các chất tự nhiên để “ăn” vào đất đai, thành ra sự màu mỡ đầy tươi mới. 

Người nông dân đốt đồng sau khi mùa vụ đã xong, và bao giờ cái cảm xúc khi ấy cũng nhẹ nhõm, khấp khởi. Nếu vụ vừa qua mưa thuận gió hoa, mùa màng bội thu thì đương nhiên vui mừng, phấn chấn. Vừa đốt có khi còn lẩm nhẩm hát những câu ca dao, những khúc dân ca thôn dã. Nếu chẳng may vụ cũ gặp thiên tai, mùa màng thất bát, thì đốt đồng cũng như cách mong kết thúc sự run rủi, để nhóm lên hy vọng mùa sau “trời chẳng phụ lòng người”. Chỉ có lũ trẻ luôn hồn nhiên, vô ưu. Có thể lơ đễnh mặc trâu gặm cỏ tít phía xa mà lao vào giữa đụn khói nghi ngút để chơi trò “Bụt hiện ra và hỏi: Vì sao con khóc?”, rồi có đứa sẽ vào vai người nông dân nghèo, với bao nhiêu điều ước ao, giãi bày mà phần lớn chúng nghe lỏm được từ người lớn. 

Sau này, có dịp đi nhiều nơi, dường như tôi đều thấy nơi nào có đồng ruộng thì nơi đó có đốt đồng. Khác chăng là phong tục, hình ảnh của những con người chung quanh đó. Đồng bào các dân tộc ở miền núi phía Bắc đốt nương để trồng tỉa ngô trên núi cao. Dọc theo con đường dốc quanh co, ngoằn ngoèo, thấy thấp thoáng trên lều canh nương một bầy trẻ nhỏ. Đứa bò, đứa đứng, đứa ngồi. Cạnh đấy có khi còn có bà mẹ trẻ vừa đốt nương xong tranh thủ cho con bú. Xa xa chút là ông chồng vừa xong việc và đã liêng biêng men rượu ngô. Khoảnh nương mới đốt hẵng còn khói. Khói từ đó bò lan, lẫn vào cây, vào rừng, bao bọc cả cái lều canh nương nhỏ bé. Khung cảnh thật bình yên và cũng nhiều cơ cực. 

Ở miền Tây Nam Bộ, khói đốt đồng vương mùi cỏ ngọt. Ngồi trên xe đò, băng qua con lộ nhỏ đã thấy mùi khói. Bác tài cất giọng hát bâng quơ “coi khói đốt đồng để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng…”. Với thời tiết đặc trưng của Nam Bộ, sau khi đốt đồng một thời gian, rơm còn sót lại bà con vun thành đống cộng với lớp tro ẩm ướt sau mưa sẽ mọc ra nấm rơm đồng tự nhiên tròn vo như trứng gà, béo ngọt, sần sật, một đặc sản thiên nhiên, khí hậu, ruộng đồng ban tặng cho những con người cần cù, chân chất. 

Xứ Nam Kỳ xưa, nông dân trồng lúa không nhọc nhằn như đất Bắc. Chỉ cần gieo “sạ” (một kỹ thuật giản đơn, gieo hạt lúa đã nảy mầm xuống thẳng ruộng và chờ ngày gặt hái thay vì phải gieo mạ, nhổ mạ, cấy lúa) rồi chờ ngày thu hoạch mang về. Trong Nam cũng ít phải gom rơm đánh đụn như ngoài Bắc, nên phần lớn rơm rạ đều đốt. Thành ra khói đồng có thể cũng nhiều hơn. Chưa kể, có những vùng ngập nước, không cần “sạ” mà vẫn có lúa ăn. Người dân quen gọi là “lúa trời” hoặc “lúa ma”, sinh trưởng tự nhiên mọc trong vùng nước ngập. Nước ngập tới đâu, thân lúa vươn tới đó, có khi dễ đến cả mét. Ở những vùng này, đương nhiên không ai đốt đồng, và hễ mùa sau lúa không lên thì nơi chốn ấy cũng rơi vào quên lãng. 

Chiều đông thương khói trên đồng
Chiều đông thương khói trên đồng

Khói đồng đâu chỉ riêng khói rạ rơm mà còn ôm ấp cả khoảng trời tuổi thơ đầy bao dung, thơm thảo và mơ mộng. (Ảnh: Internet)

Nhiều khi, thấy thương, thấy nhớ, thấy tiếc những ruộng đồng mà ta không thể nào quên lãng. Về làng, đâu đó đã mọc lên nhà cửa, dự án, công trình… thế mà lạ thay, vẫn cứ nhớ từng mảng non xanh, vàng ruộm và khói đốt đồng bay lên. Nhớ nhất là quãng đầu đông, sau vụ mùa. Tôi vẫn thường thơ thẩn, nghĩ ngợi. Có ai đi nhớ khói bao giờ? Đám trẻ ngày xưa như lạc vào cổ tích. Vẫn mải miết đuổi bắt cào cào, muồm muỗm, chuột đồng… Vẫn tưởng tượng khói hình người, hình chùa chiền, cây cối… 

Làng quê đã mang dáng vẻ phố thị, ruộng đồng cũng thu hẹp lại, và chẳng ai còn đốt đồng, sợ điều tiếng “gây ô nhiễm”. Đất chật người đông, khu dân cư, trường học, nhà máy gần thế thì cái thứ khói lành hiền từ rơm từ rạ đương nhiên cũng thành ô nhiễm, ngột ngạt. Là bởi đã không còn khoảng cách thênh thang của không gian nữa. Ngày xưa, ra ruộng đồng trẻ chạy mỏi rã chân, nhà nào rạ rơm nhiều lắm thì vẫn không khiến những đám khói, đụn khói bay được vào làng. Chưa kể, xưa chỉ thuần rạ rơm, cỏ bụi… mà nay ruộng đồng phần nhiều rác rưởi, chất thải trôi dạt từ đẩu từ đâu chung quanh những nhà máy, công trình, hộ dân… nên khói đã không thuần là khói. 

Nhiều địa phương kêu khổ, than vãn bởi khói đốt đồng. Nhiều làng quê ra lệnh cấm, lệnh phạt. Bởi khói bây giờ đâu như khói ngày xưa. Mừng vì sự “thay da đổi thịt”, mà cũng thương bởi những điều chân chất đã nhạt nhòa, những thênh thang mênh mang đã dần thu hẹp. Tất cả thuận theo lẽ tự nhiên, theo quy luật phát triển. Chỉ có ký ức, kỷ niệm và sự riêng tư trỗi dậy trong lòng là chẳng chịu theo một quy luật nào, cứ bị dẫn dắt bủa vây bởi cảm xúc. Mà cảm xúc thì như khói, lúc thành đụn, thành bụi, thành mảng. Lúc mong manh thành dòng, thành sợi vương vít dịu dàng và ám ảnh sâu xa. Thương khói, cũng bởi có bao nhiêu hình bóng đã lần lẫn đó đây, đã không còn trở lại, đã chập chờn trong giấc mộng của ta giữa phố thị với niềm nhớ thương, tiếc nuối dâng đầy./.

]]>
Đời sống của thơ ca https://trithucdoanhnhan.net/doi-song-cua-tho-ca/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:31 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3558

Tôi hình dung thơ ca hiện thời đang chảy giữa hai bờ ước lệ, một bên bờ được dựng lên từ những ngôi nhà ngôn ngữ lấp lánh giai âm hiện đại còn bờ kia là êm ả điệu hồn truyền thống.

Giữa hai bên bờ ấy là dòng chảy không ngừng của hiện thực đời sống với những lớp lang, giai tầng mà bất cứ một người viết nào cũng có thể chạm tới. Nhưng, nếu đó chỉ là cú chạm vào đời sống thì chắc chắn chưa đủ. Đời sống cần thi ca cất lên giai điệu của mình để lấp đầy những khoảng trống, để xoá đi những ngăn cách, để khơi lên một dòng chảy không ngừng hoặc ít nhất là làm mới lại những gì đã cũ. Ở chiều ngược lại, thi ca cần đời sống để tồn tại, để lưu dấu và để làm nên những giá trị cốt yếu vì con người.

Bỏ ra ngoài những vấn đề về nghệ thuật, bỏ ra ngoài những hình thức thể hiện thì thơ chính là chứng sinh của hiện thực đời sống, chứa đựng và xác tín tinh thần thời đại. Điều đó sẽ không thể nào khác đi, ngay cả khi một người viết có sự thiên lệch giữa cái tôi cá nhân với cái tôi xã hội đến đâu thì suy cho cùng đó vẫn là đời sống. Điều đáng bàn là đời sống mà người viết đã thể hiện ra ở tác phẩm như thế nào, đã đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc hay chưa… luôn là những truy vấn cho mỗi người viết mọi thời đại.

Một người viết cao tay, một người viết có nghề, hoàn toàn có thể dùng câu chữ để tạo ra những khoái cảm nhất thời cho bạn đọc. Nhưng giá trị văn chương nghệ thuật vốn không nằm trong những “khoái cảm nhất thời” mà nó nằm ở sự vĩnh hằng là hướng con người đến những điều tốt đẹp nhất của đời sống. Và khi người viết không có những trăn trở với đời sống, không đặt ra cho mình những suy nghĩ về nghề, đặc biệt là không tạo ra được sợi dây liên hệ giữa mình với người khác, giữa con người với con người thì đó sẽ là điều thảm bại và đáng sợ nhất. Điều thảm bại và đáng sợ này, hẳn nhiên không chỉ ở tác phẩm, ở trách nhiệm của người viết mà vô hình trung nó mang đến những hệ lụy to lớn với người đọc. Người đọc, một là nhìn nhà thơ với con mắt lệch lạc, coi thường, hoặc là bị kéo vào những thứ vô bổ, đôi khi là lệch lạc, méo mó với đời sống mà thơ ca mang đến cho họ.

Đời sống của thơ ca
Giá trị văn chương nghệ thuật nằm ở sự vĩnh hằng là hướng con người đến những điều tốt đẹp nhất. (Ảnh: Meta)

Hiện nay, gần như thơ ca không thể hiện được tiếng nói, vai trò phản tỉnh của mình. Đã có những câu hỏi rốt ráo được đặt ra rằng: Nhà thơ đang ở đâu, đang làm gì và đang viết gì trước những hiện thực rất cần được lên tiếng ấy? Trốn tránh chỉ có thể làm nên những vần thơ đèm đẹp, không làm hại ai, không mang lại lợi ích gì cho con người, cho xã hội và im lặng không trả lời hay lảng tránh những câu hỏi ấy có thể càng làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn, càng làm cho người đọc ngày một xa lánh với thơ ca hơn. Cũng có vấn đề được đặt với người viết hiện nay là họ quá yêu cái tôi của mình nên không chạm được đến những giá trị mang tính phổ quát của đời sống; đề tài còn nhỏ lẻ, vụn vặt; thiếu tình cảm, trách nhiệm công dân… nên bản thân tác phẩm của họ bị người đọc xa lánh. Một thực tế đang diễn ra với đời sống thơ ca hiện nay là thơ được xuất bản rất nhiều, dễ dãi và dễ dàng đến mức ai làm thơ cũng có thể xuất bản, có thể “văng mạng” gửi đến tận tay bạn đọc, khiến cho bạn đọc như bị “tung hỏa mù”, làm mất đi phương hướng nhận diện thơ hay, thơ dở. Nhìn nhận về thực tế này có người cho rằng, đó là cái được của sự cởi mở và trong xuất bản mọi tác giả, tác phẩm đều có quyền bình đẳng như nhau miễn là tác phẩm của họ không gây hại cho xã hội. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thực tế đó đã làm cho thơ ca trở nên rẻ rúng hơn, bị coi thường hơn. 

Nên nhớ, ở một khía cạnh nào đó, bạn đọc chính là hàn thử biểu để đánh giá vai trò của nhà thơ với thơ ca và cao hơn nữa là giá trị của thơ ca đối với đời sống. Khi bạn đọc quay lưng với thơ ca, khi bạn đọc không còn tha thiết với thơ ca thì trách nhiệm đó thuộc về nhà thơ. Ở khía cạnh này có thể ví rằng thơ ca và người đọc như phách với nhịp. Nếu tiếng phách ấy vang lên một cách hỗn loạn nó sẽ không thể có vị trí trong bản nhạc mà đó chỉ là thứ âm thanh quái đản làm chối tai người nghe, còn khi tiếng phách ấy vang lên theo một nhịp điệu trùng khít với đời sống, trùng khít với tâm hồn người đọc thì ngay lập tức nó tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật tác động đến tâm tư, tình cảm con người. Và khi đó nhà thơ đã thực hiện được sứ mệnh thi ca cùng trách nhiệm công dân của mình.

Đời sống của thơ ca
Tất cả những bài thơ hay đã tồn tại trong lòng độc giả đều được viết trên nền hiện thực của đời sống. (Ảnh: Meta)

Một minh chứng về tất cả những bài thơ hay đã tồn tại trong lòng độc giả suốt hàng ngàn năm, hàng trăm năm hay hàng chục năm qua ở nước ta đều được viết trên nền hiện thực của đời sống. Một người viết xa rời với hiện thực đời sống cũng đồng nghĩa rằng tác phẩm của anh ta sẽ không thể có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. Có chăng nó chỉ tồn tại trong “khoái cảm nhất thời” để rồi sau một thời gian, người ta không còn nhớ sự hiện diện, tồn tại của tác phẩm ấy.

Nhiều người khi làm thơ, xuất bản thơ, khi tâm sự trước bạn đọc thường mượn câu “mua vui cũng được một vài trống canh” của Đại thi hào Nguyễn Du để nói về việc làm thơ của mình. “Mua vui” ở đây có thể hiểu về chức “giải trí” của thơ ca và họ nghiễm nhiên đặt chức năng giải trí lên hàng đầu mà quên đi rằng thơ ca không chỉ có chức năng giải trí mà nó còn có đóng góp quan trọng vào việc phản tỉnh con người trước những vấn đề xuống cấp của đời sống xã hội, ngợi ca vẻ đẹp của đời sống để con người trở nên đẹp đẽ hơn, nhân văn hơn, cao cả hơn. Khi đọc “Truyện Kiều” ta cũng có thể thấy Đại thi hào Nguyễn Du đã đặt ra những vấn đề nóng bỏng của xã hội khi ấy, đặc biệt về con người và thân phận con người, từ đó đánh động vào tâm can của người đọc, làm người đọc nhìn nhận và thay đổi mình đồng thời đấu tranh để thay đổi sự xuống cấp của đạo đức xã hội. “Mua vui” trong Truyện Kiều chỉ được đề cập đến khi nhà thơ chạm tận cùng những vấn đề của đời sống, những vấn đề của xã hội và những vấn đề của thân phận con người.

Bất kỳ thời đại nào thì thơ ca cũng có những bến bờ được tạo dựng bằng hiện thực đời sống. Dù phản ánh hiện thực đời sống trực tiếp hay gián tiếp, dù hiện đại hay truyền thống thì điều cốt yếu mà thơ ca mang lại cho người đọc chính là làm tôn lên mọi vẻ đẹp cho con người và vì con người, cho đời sống và vì đời sống. Chỉ có như thế chúng ta mới tạo nên sự vững bền cho thơ ca và nhà thơ mới hoàn thành được sứ mệnh của mình./.

]]>