pháp lý bất động sản – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Mon, 29 Sep 2025 20:24:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg pháp lý bất động sản – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Thị trường bất động sản chuyển dịch sang hướng bền vững, người mua chú trọng chất lượng https://trithucdoanhnhan.net/thi-truong-bat-dong-san-chuyen-dich-sang-huong-ben-vung-nguoi-mua-chu-trong-chat-luong/ Mon, 29 Sep 2025 20:24:43 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/thi-truong-bat-dong-san-chuyen-dich-sang-huong-ben-vung-nguoi-mua-chu-trong-chat-luong/

Thị trường bất động sản đang dần ổn định với nhu cầu an cư tăng cao

Nhà đầu tư sơ cấp ưu tiên pháp lý dự án, hạ tầng kết nối, tiện ích đầy đủ và thiết kế cảnh quan khi chọn sản phẩm xuống tiền. (Ảnh: Batdongsan.com.vn)
Nhà đầu tư sơ cấp ưu tiên pháp lý dự án, hạ tầng kết nối, tiện ích đầy đủ và thiết kế cảnh quan khi chọn sản phẩm xuống tiền. (Ảnh: Batdongsan.com.vn)

Trong bối cảnh hiện nay, thị trường bất động sản đang cho thấy những dấu hiệu tích cực với nhu cầu an cư tăng cao. Kết quả khảo sát từ Batdongsan.com.vn cho thấy tâm lý thị trường đang có dấu hiệu ổn định trở lại, với nhu cầu thực chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, 64% người mua hướng đến mục tiêu an cư, trong khi chỉ 36% có động cơ đầu tư. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy thị trường đang dịch chuyển sang hướng bền vững hơn.

Người mua chú trọng đến yếu tố pháp lý, chất lượng sống và môi trường xanh

Khi khảo sát về loại hình bất động sản được quan tâm trong 12 tháng tới, chung cư và nhà riêng cùng chiếm 31%, tiếp theo là đất nền (19%), nhà mặt phố (12%) và biệt thự (11%). Người mua cũng cho thấy mức độ sẵn sàng tiếp cận tín dụng cao, với 66% sẵn sàng hoặc rất sẵn sàng vay mua nhà, chủ yếu trong khung từ 30-70% giá trị bất động sản.

Về tiêu chí lựa chọn sản phẩm, người mua nhà sơ cấp quan tâm nhất đến hệ thống tiện ích nội – ngoại khu, sau đó là pháp lý, chất lượng sống và tiêu chuẩn xây dựng. Với thị trường thứ cấp, yếu tố môi trường sống, pháp lý, an ninh khu vực và chất lượng công trình được đặt lên hàng đầu.

Khảo sát cũng cho thấy 64% nhà đầu tư hướng đến thị trường thứ cấp, trong khi 36% tìm kiếm cơ hội ở phân khúc sơ cấp, với yêu cầu rõ ràng về pháp lý (78%), hạ tầng kết nối (71%) và tiện ích (66%). Đặc biệt, khảo sát ghi nhận sự quan tâm ngày càng lớn đến yếu tố ‘bất động sản xanh’. Có đến 64% người tham gia cho biết rất chú trọng đến các tiêu chí như không gian xanh, thiết kế bền vững, khả năng chống ngập và chứng chỉ công trình xanh.

Chính sách sáp nhập địa giới hành chính và kỳ vọng của người mua

Về các yếu tố vĩ mô, chính sách sáp nhập địa giới hành chính nhận được sự quan tâm lớn từ người mua, với 53% cho rằng giá bất động sản sẽ tăng, 37% tin giá sẽ ổn định và chỉ 10% lo ngại giảm giá. Mức độ sẵn sàng đầu tư tại khu vực sáp nhập cũng khá cao: Hà Nội có 39% đã sẵn sàng, TP HCM là 35%, các khu vực miền Bắc, Nam và Trung lần lượt dao động từ 33-48%.

Thách thức của thị trường bất động sản

Tuy nhiên, để biến nhu cầu thành giao dịch, thị trường vẫn đối mặt nhiều thách thức: từ khả năng tiếp cận vốn vay, nguồn cung phù hợp túi tiền, đến vấn đề thủ tục pháp lý và sự thiếu minh bạch trong nhiều phân khúc. Chính sách nhà ở xã hội vốn là ‘cứu cánh’ cho nhóm thu nhập trung bình vẫn chưa thật sự hiệu quả.

Xu hướng mới của thị trường bất động sản

Tín hiệu tích cực là người mua đã bắt đầu quan tâm hơn đến chất lượng sống, thay vì chỉ so sánh giá cả hay lợi suất đầu tư. Xu hướng lựa chọn sản phẩm có thiết kế xanh, không gian mở và tích hợp nhiều tiện ích cho thấy thị trường đang bước vào giai đoạn sàng lọc, nơi các chủ đầu tư cần nâng cấp tiêu chuẩn để đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của khách hàng.

]]>
Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản đang được sửa đổi đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, sửa luật như thế nào để loại bỏ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang là câu hỏi làm nóng các diễn đàn, hội nghị, hội thảo trong thời gian gần đây. https://trithucdoanhnhan.net/luat-dat-dai-luat-nha-o-va-luat-kinh-doanh-bat-dong-san-dang-duoc-sua-doi-dong-bo-nham-dap-ung-nhu-cau-phat-trien-cua-dat-nuoc-trong-giai-doan-moi-tuy-nhien-sua-luat-nhu-the-nao/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:50 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3131

Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản đang được sửa đổi đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, sửa luật như thế nào để loại bỏ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang là câu hỏi làm nóng các diễn đàn, hội nghị, hội thảo trong thời gian gần đây.

*****

Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người dân, nhà đầu tư và trên hết là hài hòa lợi ích, quyền và trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người dân là bài toán cần tầm nhìn dài hạn, toàn diện và thấu đáo. Reatimes đã có cuộc trao đổi với Luật sư Nguyễn Tiến Lập, Thành viên Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng sự, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam xung quanh vấn đề này.

Sửa đổi Luật Nhà ở phải phục vụ mục tiêu an sinh xã hội

PV: Thưa ông, Luật Nhà ở sửa đổi cần bổ sung quy định như thế nào về vấn đề thời hạn sử dụng nhà chung cư để đảm bảo quyền lợi của người dân và thuận lợi hơn cho công tác cải tạo chung cư khi xuống cấp sau này?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Quan điểm của cá nhân tôi, đã sở hữu tài sản thì không có giới hạn về thời gian, có nghĩa là chủ sở hữu có toàn bộ các quyền của mình cho đến khi tài sản đó về mặt thực thể không còn tồn tại. Theo nguyên lý đó và phù hợp với cả Luật Dân sự và Luật Đất đai, tại Việt Nam khi một người sở hữu nhà ở, dù là nhà riêng hay căn hộ trong tòa nhà chung cư đều không khác nhau, anh ta có quyền sở hữu với toàn bộ phần nhà, riêng với đất thì có quyền sử dụng lâu dài, tức không giới hạn thời gian.

Từ góc độ an toàn của công trình, về nguyên tắc, bất cứ công trình nào dù còn hay hết tuổi thọ mà hư hỏng, xuống cấp dẫn đến mất an toàn thì đều không được phép sử dụng. Cũng lưu ý, ở nhiều nước có các công trình kiến trúc đã tồn tại hàng trăm năm mà vẫn chắc chắn và an toàn. Ngoài ra, nếu vì kiểm soát an toàn thì cần quan tâm đến tất cả các loại nhà ở chứ không thể chỉ giới hạn vào nhà chung cư.

Nếu tuyên bố tòa nhà chung cư hết hạn sở hữu đối với chủ sử dụng thì người dân không còn quyền và cơ hội thỏa thuận về đền bù bình đẳng với chủ đầu tư dự án nữa, cũng như không có quyền yêu cầu hay khiếu nại trong đền bù về sở hữu tài sản mà buộc phải chấp hành các quy định về mức đền bù di dời và tái định cư.

Còn nếu nói về thời hạn sử dụng, thì cơ quan quản lý phải nêu rõ theo tuổi thọ công trình, theo thiết kế. Đồng thời, cần phân định mục đích chỉnh trang đô thị hay đảm bảo an toàn. Có những khu chung cư chưa báo động về an toàn nhưng mất mỹ quan đô thị thì vẫn phải thuyết phục người dân để di dời. Chúng tôi cũng đang kiến nghị sửa Luật Đất đai, trong đó đề nghị khi có 80% số người dân đồng ý thì sẽ thực hiện di dời, để nút thắt giải phóng mặt bằng được tháo gỡ.

Trên khía cạnh đảm bảo an toàn, cơ quan quản lý có thể thực hiện kiểm định để kết luận tòa nhà mất an toàn và đề nghị phá dỡ, nếu người dân không đồng ý, sẽ có quyết định cưỡng chế bởi tòa án. Lúc này, người dân cần tuân thủ nguyên tắc, nhưng vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư hay chỗ ở tạm thời sẽ phải quy định rõ ràng.

PV: Vấn đề đặt ra là làm sao vừa bảo đảm quyền sở hữu của công dân, vừa bảo đảm an toàn, chất lượng công trình, dễ dàng cải tạo, xây mới. Pháp luật nên quy định thế nào để giải được bài toán này, thưa ông?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Tôi thấy điều này rất đơn giản và ở các nước người ta cũng đã làm. Định kỳ hoặc khi có các sự cố kỹ thuật xảy ra, Bộ Xây dựng và các cơ quan chức năng phải tiến hành kiểm tra an toàn các ngôi nhà, bất kể là nhà chung cư hay nhà ở riêng thuộc sở hữu của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Trong trường hợp phát hiện sự xuống cấp hay sự cố kỹ thuật dẫn đến mất an toàn cho người sử dụng nhà, cơ quan Nhà nước hoàn toàn có quyền ra lệnh đình chỉ sử dụng, tiến hành các biện pháp di dời để bảo đảm an toàn cho người ở và sử dụng nhà. Tất cả các vấn đề liên quan đến thiệt hại vật chất phát sinh, chi phí sửa chữa, khắc phục để tái sử dụng nhà sẽ do chủ sở hữu tòa nhà chịu trách nhiệm.

Ở các nước, yêu cầu thực hiện bảo hiểm đối với an toàn công trình là bắt buộc, do đó trong các trường hợp như vậy, các chi phí liên quan sẽ được chia sẻ bởi công ty bảo hiểm nên mọi việc được triển khai suôn sẻ và thuận lợi. Ở nước ta, rất nên và cần thiết triển khai áp dụng sớm và đồng loạt cơ chế này.

Từ góc độ Luật Đất đai, trên thực tế đã có quy định rõ ràng. Tất cả các chủ sở hữu căn hộ trong nhà chung cư là đồng sở hữu đối với khu đất có liên quan, trong trường hợp tòa nhà bị phá bỏ, họ sẽ có toàn quyền thỏa thuận cùng nhau để xây dựng lại công trình cho mục đích đã xác định trước đó. Nhưng như tôi đã nói, thay vì cần sự đồng ý của 100% chủ sở hữu, chúng tôi kiến nghị chỉ cần 80% đồng ý để việc giải tỏa được thuận lợi hơn. Lưu ý, chỉ thỏa thuận nhằm mục đích chỉnh trang đô thị, còn khi tòa nhà được kết luận mất an toàn, ngoài thỏa thuận chi phí liên quan, thì theo thông lệ các nước, việc phá dỡ sẽ không cần thỏa thuận, nhưng cần có quyết định cưỡng chế từ tòa án.

PV: Ngoài vấn đề chung cư, nhà ở xã hội cũng là vấn đề an sinh thiết thực. Thế nhưng quy định chủ đầu tư làm dự án nhà ở thương mại từ 2 – 5ha phải trích lập quỹ đất 20% dành cho nhà ở xã hội dường như không phù hợp với thực tế. Ông nghĩ sao về quy định này?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Trước hết, không nên ban hành và áp dụng các chính sách kết hợp “hai trong một”, lồng ghép các mục tiêu thương mại và an sinh trong cùng một dự án. Bởi trên thực tế trong trường hợp này, các chủ đầu tư dự án, mà chủ yếu là các nhà phát triển bất động sản, tạo lập dự án và hàng hóa để bán chứ không có ý định sở hữu, quản lý và khai thác kinh doanh lâu dài, do đó sẽ rất khó để giữ các cam kết ban đầu với chính quyền. Nếu buộc phải thực hiện thì chỉ là sự đối phó, một số tòa nhà xã hội sẽ được xây dựng nhưng thiếu cơ sở hạ tầng đồng bộ dẫn đến mục tiêu lớn là an sinh cho cộng đồng không đạt được.

Về chủ trương này, tôi cho rằng Nhà nước cần coi đó là một chính sách xã hội và an sinh lớn, bắt đầu từ việc quy hoạch quỹ đất cho phát triển nhà ở có giá chấp nhận được đối với người có thu nhập thấp, đặc biệt là nhóm người nghèo ở đô thị và công nhân các khu công nghiệp tập trung. Tiếp theo, Nhà nước cần hình thành các quỹ tài chính hỗ trợ và các cơ chế chính sách liên quan để tạo điều kiện cho tất cả các bên tham gia phát triển nhà ở phân khúc này. Người thực hiện có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, chủ đất nhỏ, hợp tác xã hay hợp tác đối tác công tư; cũng như các sản phẩm nhà ở sẽ đa dạng và đa mục tiêu bao gồm cả mua, thuê hoặc kết hợp thuê – mua với các diện tích, cấp độ và giá cả khác nhau.

Hãy nhìn sang nước láng giềng là Singapore, ở đó Chính phủ đã thực hiện chính sách nhất quán về phát triển nhà ở cho tầng lớp bình dân từ trung lưu trở xuống trong hơn nửa thế kỷ qua để đến hiện nay có tới 90% số người dân Singapore được sở hữu nhà. Từ đó thấy rằng, phát triển nhà ở xã hội phải là một chính sách độc lập, có tầm nhìn dài hạn, đòi hỏi sự kiên nhẫn và nhất quán trong triển khai thực hiện.

Sửa đổi Luật Nhà ở phải phục vụ mục tiêu an sinh xã hội

PV:Để phục vụ nhu cầu nhà ở cho người có thu nhập thấp thì không chỉ có nhà ở xã hội dưới sự hỗ trợ của Nhà nước, mà còn có phân khúc nhà ở phù hợp với thu nhập trong bối cảnh giá nhà đất tăng quá cao như hiện nay. Song Luật Nhà ở chưa đề cập đến khái niệm “nhà ở phù hợp với thu nhập”, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Tôi cho rằng, dù Luật Nhà ở có hay chưa đề cập đến khái niệm “nhà ở phù hợp với thu nhập” cũng không quan trọng, bởi mấu chốt không phải là quy định của luật pháp mà là chính sách về nhà ở của Chính phủ. Cần có chính sách thật sự rõ ràng và khả thi trước đã, sau đó để thực hiện thì ban hành các văn bản và quy định pháp luật khác nhau như các công cụ để thực hiện.

Các yếu tố quan trọng nhất là quyền kinh doanh bất động sản, quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất thì đã có các luật khác nhau điều chỉnh, không nên chờ đợi với tâm lý cho rằng, cứ phải có quy định pháp luật thì mới ban hành và thực hiện, bởi đó là hai phạm trù tương đối độc lập với nhau.

Luật thiếu nhất quán và đồng bộ có thể gây

bất ổn cho thị trường

PV: Vâng thưa ông, tâm lý chờ đợi này vẫn tồn tại ở nhiều lĩnh vực. Ví dụ như đối với bất động sản du lịch – nghỉ dưỡng, đến thời điểm này, Bộ Xây dựng, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa tìm được tiếng nói chung để có thể đưa ra khung pháp lý cho loại hình bất động sản này. Nguyên nhân do đâu, thưa ông?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Theo nghiên cứu, tôi thấy hiện tượng này khá điển hình cho sự bất cập giữa việc phát triển, thay đổi nhanh chóng của các điều kiện thị trường với tình trạng chậm đổi mới, không theo kịp hay lạc hậu của khung thể chế và pháp luật.

Trong nhiều năm, bất động sản nghỉ dưỡng gắn liền với các dự án đầu tư du lịch do chủ đầu tư tư nhân thực hiện. Họ xin giấy chứng nhận đầu tư, xin thuê đất để xây khu du lịch khép kín để kinh doanh nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí với tư cách chủ sở hữu toàn bộ tài sản dự án cho thời hạn khoảng 50 năm. Đi cùng là cơ chế thuê đất, thực hiện quyền kinh doanh, khai thác tài sản trên đất của một chủ sở hữu dự án duy nhất.

Tuy nhiên, tình hình thị trường đã thay đổi, các dự án hay khu du lịch như vậy ngày càng lớn về quy mô, chiếm đất và không gian, dẫn đến đa mục đích về đầu tư, đa dạng về công năng và hỗn hợp về nguồn vốn đầu tư và quyền sở hữu. Cụ thể, chủ dự án chỉ đóng vai nhà phát triển dự án trong khi nhà đầu tư bỏ tiền thật là hàng trăm, hàng ngàn cá nhân trở thành đồng sở hữu tài sản trên đất. Đồng thời, công năng của dự án không chỉ bó hẹp du lịch và lưu trú ngắn ngày, mà còn hình thành các đơn vị ở đan xen phục vụ ở dài hạn.

Thực tế này dẫn đến các phức tạp khi minh định quyền sở hữu và quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản và kinh doanh, bởi nó bị phân tách ra giữa các bên trên cơ sở các thỏa thuận bằng hợp đồng. Vấn đề đặt ra là tính hợp pháp của các hợp đồng và sẽ được pháp luật bảo vệ như thế nào trong bối cảnh Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Du lịch và Luật Đất đai được xây dựng và thiết kế với các tư tưởng và nội dung chính sách cũ và nặng tính “truyền thống”?

Câu chuyện nói trên có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia có thị trường mới nổi nào, không chỉ Việt Nam. Nhưng một khi xảy ra ở nước ta, sẽ trở nên khó giải quyết bởi vướng vào một tư duy cũ, thâm căn cố đế từ thời bao cấp và kế hoạch tập trung. Về phương diện pháp luật, tư duy này thể hiện ở phương châm hành xử, đó là bất cứ hiện tượng hay hành vi nào không được pháp luật quy định thì đều được coi là không chính đáng.

Thực tế, mỗi khi thị trường có diễn biến mới, các cơ quan bộ ngành lại tập trung nghiên cứu và sửa đổi pháp luật, từ định nghĩa các khái niệm mới đến quy định cụ thể để điều chỉnh. Tình trạng này lặp lại trong nhiều năm, dẫn đến pháp luật thường xuyên thay đổi và các nhà đầu tư cũng như người dân luôn phải tìm cách thích ứng.

Sự thiếu bền vững, nhất quán và đồng bộ có thể gây bất ổn cho thị trường, khiến tâm lý xã hội bất an và tạo ra hàng loạt vướng mắc, khó khăn về thủ tục hành chính, pháp lý cho các giao dịch dân sự và thương mại hàng ngày. Tôi nghĩ rằng, cần mổ xẻ vấn đề để tìm ra nguyên nhân sâu xa và cốt lõi thì mới khắc phục được tình hình.

bất ổn cho thị trường

 PV: Có những loại hình bất động sản mới, nhưng chưa có quy định cụ thể trong Luật Kinh doanh bất động sản. Hiện khách hàng có thể mua bất động sản nghỉ dưỡng, nhưng việc sang tên, chuyển nhượng, thế chấp ngân hàng… còn nhiều vướng mắc. Để quản lý tốt vấn đề này, Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi nên điều chỉnh theo hướng nào, thưa ông?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Như tôi đã phân tích ở trên, chúng ta không thể làm luật và sửa đổi luật theo cách thức chạy theo thị trường và cuộc sống, với tâm lý muốn kiểm soát toàn diện như vậy. Luật Kinh doanh bất động sản chỉ cần xác định những vấn đề cơ bản, dựa trên nền tảng của tự do kinh doanh, an toàn và linh hoạt về sở hữu.

Trước hết là phân định rạch ròi giữa quyền phát triển dự án bất động sản và quyền sở hữu, kinh doanh các bất động sản được xây dựng. Tiếp đó phân định giữa quyền kinh doanh kiếm lời và quyền khai thác dân sự đối với các bất động sản. Còn các vấn đề khác thì hãy để thị trường tự điều chỉnh, có chăng nếu Chính phủ thấy cần can thiệp để bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa và ổn định của nền kinh tế thì ban hành các chính sách trong từng thời kỳ nhằm khuyến khích hay hạn chế một số khu vực và hoạt động nhất định. Thực chất, xét về mặt không gian, một khi đã kiểm soát sự phát triển nền kinh tế bằng hệ thống các quy hoạch chặt chẽ rồi thì Nhà nước không còn gì phải e ngại.

Chẳng hạn, tôi thấy có những loại hình, mô hình phát triển và kinh doanh bất động sản rất mới ở nước ta được du nhập từ bên ngoài như đầu tư để sở hữu các kỳ nghỉ, tức sở hữu quyền và lợi ích mà không sở hữu tài sản trên thực tế. Đối với những trường hợp như vậy, tôi cho rằng Luật Kinh doanh bất động sản không cần điều chỉnh mà hãy để cho sức sáng tạo và quyền tự do thỏa thuận của người dân phát huy tác dụng trên nền tảng của Bộ luật Dân sự.

PV: Ngoài nền tảng Bộ luật Dân sự, thì căn cơ nhất vẫn là điều chỉnh Luật Đất đai, thưa ông?

LS. Nguyễn Tiến Lập: Đúng vậy! Trong điều kiện của nước ta, khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và bởi nguyên lý rằng mọi tài sản đáng giá, bao gồm cả nơi sống của người dân đều tồn tại trên đất và gắn liền với đất, Luật Đất đai trở thành đạo luật quan trọng nhất, có tính nền tảng, chi phối mọi hoạt động kinh tế – xã hội và có ý nghĩa thiết thực với đời sống hằng ngày của người dân. Tôi nói điều này để nhấn mạnh một đặc thù ở nước ta mà không phổ biến ở các nước trên thế giới – và không có một Luật Đất đai điều chỉnh toàn diện, tập trung và thống nhất như vậy.

Liên quan đến câu chuyện cụ thể này, tôi chỉ xin dẫn chứng một điểm căn bản. Đó là theo Luật Đất đai, các khu đất, thửa đất cụ thể được phân loại theo mục đích sử dụng và do Nhà nước xác định và cấp phép. Có tới hàng trăm loại mục đích sử dụng được liệt kê theo các quy định của pháp luật về đất đai. Điều này có thể tạo nên mâu thuẫn, chồng chéo giữa thực hiện quyền sở hữu tài sản trên đất và việc đăng ký, cấp phép thay đổi mục đích sử dụng đất sao cho phù hợp liên quan đến từng dự án và giao dịch cụ thể. Trong khi đó, người dân có quyền tự do sở hữu, tự do đầu tư và tự do kinh doanh theo nhu cầu thực tế đa dạng của đời sống dân sự và nền kinh tế trong bối cảnh linh hoạt thị trường.

Về phương diện quản lý nhà nước, chúng ta đang có các bộ chuyên ngành quản lý từng lĩnh vực. Như vậy, có thể xảy ra trường hợp, giả dụ nếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch có đề ra các chính sách và quy định linh hoạt, thông thoáng để phát triển đầu tư, kinh doanh thì liệu rằng, Bộ Tài nguyên và Môi trường có nhất trí như vậy để giảm thiểu sự phân loại cũng như các thủ tục đăng ký, cấp phép cho việc thay đổi các mục tiêu sử dụng đất hay không?

Đây chỉ là ví dụ nêu ra cho dễ hiểu, nhưng chính là một vấn đề chính sách và pháp luật căn bản nhất trong nhiều vấn đề mà tôi muốn kiến nghị xem xét sửa đổi khi Quốc hội tiếp tục thảo luận và thông qua Luật Đất đai mới.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

   

Bài viết cùng tác giả Thu Ngà (thực hiện) »

]]>
Vỡ mộng giàu nhanh, nhà đầu tư chôn tiền tỷ vào đất thiếu pháp lý https://trithucdoanhnhan.net/vo-mong-giau-nhanh-nha-dau-tu-chon-tien-ty-vao-dat-thieu-phap-ly/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:34 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3500

Thị trường đột ngột trầm lắng, không ít người mua đất rừng sản xuất, đất khai hoang rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, ngậm ngùi để hàng tỷ đồng “chôn” trong đất.

“Chôn” tiền tỷ vào đất khai hoang, đất rừng sản xuất

Khi thị trường bất động sản rơi vào trầm lắng, phân khúc đất nền chịu ảnh hưởng và được ồ ạt rao bán. Tuy nhiên, dù chủ đất đã xác định giảm giá, thậm chí là cắt lỗ sâu nhưng vẫn khó bán, đặc biệt ở các sản phẩm đất khai hoang, đất rừng sản xuất không có pháp lý rõ ràng.

Dù đang gặp nhiều khó khăn về tài chính, anh Nguyễn Anh Huy (Thanh Xuân, Hà Nội) vẫn không thể bán được mảnh đất khai hoang. Theo anh Huy, giữa năm 2020, anh có mua một mảnh đất khai hoang gần 2.000m2 ở huyện Ba Vì (Hà Nội) với giá 3,2 tỷ đồng (tương đương 1,6 triệu đồng/m2).

“Lúc đó, theo tư vấn của môi giới, mảnh đất khai hoang này nằm trong khu vực quy hoạch dân cư, có thể chuyển đổi sang đất ở để sử dụng lâu dài. Qua khảo sát, mức giá trên là hợp lý, tôi quyết định vay thêm ngân hàng 1,5 tỷ đồng để mua”, anh Huy kể.

Tuy nhiên, theo anh Huy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng mảnh đất tại thời điểm hiện tại là rất khó và cũng chưa biết bao giờ mới thực hiện được. Trong khi đó khoản vay của anh được ngân hàng báo tăng lãi suất vay lên tới 14%.

“Hiện tại, khoản vay ngân hàng của tôi phải trả cả gốc và lãi đã lên tới gần 35 triệu đồng/tháng. Số tiền phải trả hàng tháng này là toàn bộ lương của tôi, nhưng mảnh đất khai hoang kia thì vẫn chỉ để cỏ mọc”, anh Huy chia sẻ.

Cũng theo anh Huy, khi nhận thấy thị trường trầm lắng và việc chuyển đổi mục đích sử dụng khó khăn, anh đã chủ động rao bán mảnh đất với giá mua vào. Tuy nhiên, các thông tin rao bán gần như không có người quan tâm, dù anh có chấp nhận bán cắt lỗ.

“Tôi đã rao bán cắt lỗ mảnh đất khai hoang này với giá 3 tỷ đồng, giảm 500 triệu đồng so với giá mua vào. Thế nhưng, tới nay vẫn thể bán được”, anh Huy buồn bã nói.

Tương tự như anh Huy, không ít nhà đầu tư khác cũng đang bị “chôn” tiền vào đất nền không rõ ràng pháp lý. Đơn cử như trường hợp anh Trần Văn Thắng (ở Hà Nội). Từ khoảng năm 2020 đến giữa năm 2022, anh Thắng và nhóm bạn đầu tư của mình đã mua tới hơn 15ha đất rừng sản xuất, đất nông nghiệp tại Hòa Bình để hướng tới chuyển đổi mục đích sử dụng và tách thửa.

Tuy nhiên, anh Thắng thừa nhận, kế hoạch ban đầu của cả nhóm đầu tư đã bị phá sản do thị trường trầm lắng và các chính sách liên quan tới chuyển đổi mục đích sử dụng đất bị thắt chặt. Cả nhóm chỉ biết đứng chờ và sẵn sàng tính hướng “tháo chạy” để thu hồi vốn sớm khi cần.

“Giá 1ha đất rừng sản xuất ở huyện Đà Bắc, Lạc Sơn tôi mua năm 2022 đã lên tới 800 – 900 triệu đồng, cao hơn gấp 2 – 3 lần năm 2018. Còn ở khu vực huyện Lương Sơn, do có vị trí gần Hà Nội, giá đất rừng sản xuất cũng cao, khoảng 2 tỷ đồng/ha”, anh Thắng cho biết.

Cẩn trọng với giao dịch thiếu pháp lý

Anh Phạm Đức Huy, một môi giới chuyên bán đất nền ở khu vực Hà Nội và Hòa Bình cho biết, thời điểm dịch Covid-19 còn phức tạp (2020 – 2021), ngoài những sản phẩm đất nền có pháp lý rõ ràng, thì đất khai hoang, đất rừng sản xuất được nhà đầu tư lựa chọn rất nhiều dù giao dịch chủ yếu bằng hình thức viết tay, vi bằng. 

Cũng theo môi giới này, lý do đất rừng ở Hòa Bình hay đất khai hoang ở các khu vực vùng ven của Hà Nội có giá cao bởi lượng người mua lớn, chủ yếu đến từ Hà Nội. Trong đó, nhiều nhà đầu tư hướng tới thông tin, trong thời gian sắp tới, tại đây có nhiều dự án du lịch, nghỉ dưỡng với cơ hội đầu tư lớn.

“Với hy vọng thu lời từ việc đón đầu dự án, nhiều nhà đầu tư đã mạnh tay xuống tiền để có những mảnh đất đẹp, sau đó tiếp mua bán, chuyển nhượng đất để sinh lời”, môi giới nói.

Tuy nhiên, anh Huy thừa nhận, từ khoảng giữa năm 2022, tình trạng mua bán, chuyển nhượng đất rừng sản xuất, đất khai hoang tại Hà Nội và Hòa Bình đã chững lại. Một số địa phương, thực hiện chuyên đề “Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai” khiến số lượng giao dịch đất rừng đã giảm.

Còn trên thị trường, dù cơn “sốt đất” ở nhiều nơi đã chững lại, nhưng đất rừng sản xuất tại Hòa Bình, hay đất khai hoang ở nhiều khu vực huyện ven trung tâm Hà Nội vẫn có giá cao. Đáng chú ý, không ít “cò đất” vẫn ráo riết đăng tin rao bán cắt lỗ, giảm giá để tìm người mua.

Theo luật sư Nguyễn Thanh Tùng (Đoàn luật sư TP. Hà Nội), dù ở thời điểm nào khi tham gia vào giao dịch bất động sản, việc đầu tiên cần làm vẫn là xem xét cơ sở pháp lý của sản phẩm và giao dịch đó. Nếu chủ quan bỏ qua yếu tố pháp lý, nhà đầu tư rất dễ mất trắng, cho dù khu đất đó thực sự có tiềm năng nhưng nếu là tài sản sai phạm thì nó cũng không thuộc về người mua.

Đơn cử, pháp luật quy định rất rõ về mục đích sử dụng đất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng sản xuất. Cụ thể, đối với người nhận chuyển nhượng đất rừng sản xuất cũng phải có mục đích sử dụng diện tích đất nhận chuyển nhượng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

“Như vậy, diện tích đất được mua bán, chuyển nhượng cho chủ mới cần phải là người địa phương và hoạt động đúng mục đích như: Canh tác đúng loại cây trồng trên diện tích đất đang sở hữu”, luật sư nhấn mạnh./.

]]>