quy hoạch đô thị – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Jun 2025 16:41:57 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg quy hoạch đô thị – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Điều chỉnh quy hoạch thị xã Hoàng Mai: Tầm nhìn mới cho đô thị trung tâm vùng Bắc Nghệ An https://trithucdoanhnhan.net/dieu-chinh-quy-hoach-thi-xa-hoang-mai-tam-nhin-moi-cho-do-thi-trung-tam-vung-bac-nghe-an/ Sun, 08 Jun 2025 16:41:57 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/?p=4824

Thị xã Hoàng Mai đang trên đà phát triển mạnh mẽ với việc điều chỉnh quy hoạch chung nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và tận dụng tối đa tiềm năng sẵn có.

Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung thị xã Hoàng Mai đến năm 2030 đã được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt lần đầu tiên vào năm 2016. Tuy nhiên, sau gần một thập kỷ, nhiều định hướng chiến lược trong Quy hoạch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã có những cập nhật mới.

Phạm vi điều chỉnh quy hoạch bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính thị xã Hoàng Mai, bao gồm 10 phường, xã với tổng diện tích tự nhiên là 17.178,37 ha. Cấu trúc phát triển đô thị được quy hoạch theo mô hình mạng lưới giao thông và chức năng gồm 5 trục dọc, 3 trục ngang và 2 tuyến vành đai.

5 trục dọc chủ lực bao gồm: trục cao tốc – đường sắt cao tốc Bắc Nam; Quốc lộ 1A; trục quốc lộ ven biển; trục cảnh quan du lịch – công nghiệp phía Tây; và trục đường ven biển. Ba trục ngang là các tuyến Quốc lộ 48D, 48E và một số tuyến nội thị kết nối liên vùng.

Định hướng đến năm 2030, toàn bộ thị xã Hoàng Mai sẽ được phát triển theo hướng đô thị hóa đồng bộ, không còn khu vực dân cư ngoại thị. Đất dân dụng phục vụ cho dân cư đô thị dự kiến khoảng 1.794,20 ha, chiếm khoảng 10,44% diện tích tự nhiên.

Thị xã Hoàng Mai được phân chia thành ba vùng phát triển chính dựa trên tiềm năng sẵn có. Vùng 1 là khu vực phát triển đô thị kết hợp dịch vụ du lịch biển, vùng 2 là khu vực phát triển công nghiệp và logistics, vùng 3 tập trung phát triển du lịch sinh thái.

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong điều chỉnh quy hoạch lần này là định hướng đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông, kết nối nội vùng và liên vùng. Dự kiến sẽ bổ sung tuyến Quốc lộ 48E kết nối Hoàng Mai – Quỳnh Lưu – Thái Hòa, và tuyến đường tỉnh 538 từ Quốc lộ 48D qua Khu công nghiệp Hoàng Mai II đến huyện Quỳnh Lưu.

Cảng Đông Hồi sẽ được nâng cấp đạt công suất từ 4–6 triệu tấn/năm, tiếp nhận tàu có trọng tải từ 50.000 đến 70.000 tấn và tàu hàng lỏng, khí đến 150.000 tấn. Đồng thời, quy hoạch bổ sung khu cảng Quỳnh Lộc nhằm mở rộng năng lực tiếp nhận hàng hóa và kết nối khu vực công nghiệp ven biển.

Việc điều chỉnh đồ án quy hoạch lần này hướng tới mục tiêu đưa thị xã Hoàng Mai đạt đủ 63/63 tiêu chí đô thị loại III. Hoàng Mai – Quỳnh Lưu được định vị là trung tâm vùng, là cửa ngõ phía Bắc của tỉnh Nghệ An, đóng vai trò là đô thị trung tâm vùng và điểm kết nối chiến lược giữa Nghệ An với Thanh Hóa.

Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An đã được mở rộng diện tích lên 20.776,47 ha, trong đó có 3 khu công nghiệp thuộc địa bàn Hoàng Mai. Điều này mở ra cơ hội phát triển mới cho thị xã Hoàng Mai trong tương lai.

]]>
Quảng Bình Phê Duyệt Quy Hoạch Phân Khu Đô Thị Hơn 749ha tại Phường Bắc Nghĩa https://trithucdoanhnhan.net/quang-binh-phe-duyet-quy-hoach-phan-khu-do-thi-hon-749ha-tai-phuong-bac-nghia/ Sun, 08 Jun 2025 16:41:35 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/?p=4811

Quảng Bình đang đẩy mạnh quá trình đô thị hóa với việc phê duyệt quy hoạch phân khu đô thị hơn 749ha tại phường Bắc Nghĩa, thành phố Đồng Hới. UBND tỉnh Quảng Bình vừa ban hành Quyết định số 1809/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch phân khu Khu vực phát triển đô thị phường Bắc Nghĩa, tỷ lệ 1/2000.

Quyết định này là bước triển khai cụ thể hóa định hướng điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Đồng Hới và vùng phụ cận đến năm 2045. Mục tiêu là tổ chức không gian phát triển bền vững, đồng bộ về hạ tầng và nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Phạm vi lập quy hoạch bao trùm toàn bộ địa giới hành chính của phường Bắc Nghĩa với diện tích tổng thể là 749,04 ha, trong đó khu vực phát triển đô thị chiếm 702,52 ha. Ranh giới địa lý của khu vực quy hoạch được xác định rõ ràng với phía Đông giáp phường Nam Lý và xã Đức Ninh, phía Tây giáp phường Đồng Sơn, phía Nam giáp xã Nghĩa Ninh, và phía Bắc giáp phường Bắc Lý và xã Thuận Đức.

Bản đồ quy hoạch phân khu đô thị phường Bắc Nghĩa

Bản đồ quy hoạch phân khu đô thị phường Bắc Nghĩa

Mục tiêu của quy hoạch là cụ thể hóa các định hướng phát triển đã được xác lập trong Quy hoạch chung thành phố Đồng Hới, tạo cơ sở pháp lý để quản lý đất đai, kiến trúc cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội một cách hiệu quả. Dự báo dân số tại khu vực quy hoạch đến năm 2045 sẽ đạt khoảng 14.571 người.

Với tầm nhìn dài hạn, quy hoạch hướng tới việc phát triển một đô thị hiện đại, tiện nghi, đảm bảo hài hòa giữa không gian sống, sinh hoạt, sản xuất và bảo tồn giá trị tự nhiên, văn hóa. Khu vực phía Tây Bắc và phía Nam phường Bắc Nghĩa được định hướng là các phân khu phát triển dịch vụ – công cộng và dịch vụ hỗn hợp.

Quy hoạch cũng chú trọng bảo tồn, cải tạo và nâng cấp các khu dân cư làng xóm hiện hữu, nơi lưu giữ nét văn hóa đặc trưng và truyền thống sinh hoạt của cộng đồng địa phương. Các giải pháp cải tạo được định hướng theo hướng chỉnh trang kiến trúc cảnh quan, nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật – xã hội.

Phát triển các nhóm nhà ở mới là một trong những trọng tâm của đồ án. Các khu vực phía Tây Bắc, phía Đông Nam và một phần trung tâm phường được xác định là nơi hình thành các khu nhà ở mới đồng bộ, hiện đại. Những khu nhà ở này sẽ được quy hoạch với tiêu chí tiện nghi, xanh – sạch – đẹp.

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong quy hoạch lần này là phân khu cảnh quan – công viên cây xanh và mặt nước. Không gian xanh sẽ được phát triển dọc sông Phú Vinh, sông Mỹ Cương và quanh hồ Bàu Rèng, đóng vai trò điều hòa khí hậu và là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí.

Ngoài phát triển đô thị hiện đại, quy hoạch còn dành quỹ đất đáng kể cho phân khu nông nghiệp và không gian xanh đô thị. Dọc theo sông Phú Vinh, các khu đất nông nghiệp hiện trạng sẽ được định hướng phát triển theo mô hình nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao.

Khu vực rừng hiện có ở phía Tây Bắc sẽ được bảo tồn nguyên trạng, trở thành mảng xanh sinh thái tự nhiên, góp phần điều hòa vi khí hậu và bảo vệ môi trường đô thị. Về lĩnh vực sản xuất, khu tiểu thủ công nghiệp hiện hữu và khu vực mở rộng về phía Tây được quy hoạch là phân khu phát triển công nghiệp và dịch vụ kho bãi.

]]>
Bình Định phê duyệt quy hoạch hai khu đô thị mới tại Hoài Nhơn https://trithucdoanhnhan.net/binh-dinh-phe-duyet-quy-hoach-hai-khu-do-thi-moi-tai-hoai-nhon/ Sun, 08 Jun 2025 16:41:18 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/?p=4805

Thị xã Hoài Nhơn sắp có thêm hai khu đô thị hiện đại

UBND tỉnh Bình Định vừa phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 hai khu đô thị tại thị xã Hoài Nhơn. Đây là dự án quan trọng nhằm cụ thể hóa điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng đô thị Hoài Nhơn đến năm 2035.

Khu đô thị Bình Phú tại phường Hoài Thanh Tây có quy mô 73,9ha, với mục tiêu xây dựng khu ở mới đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Khu vực này sẽ có 998 thửa đất nhà ở với tổng diện tích 188.499m2, cùng với các công trình hạ tầng xã hội, trụ sở cơ quan, và dịch vụ du lịch.

Các chỉ tiêu quy hoạch – kiến trúc của dự án bao gồm quy mô dân số khoảng 3.593 người. Dự án cũng quy định rõ ràng về chiều cao và mật độ xây dựng cho từng loại đất, đảm bảo sự hài hòa và hợp lý trong kiến trúc.

Đồng thời, Khu đô thị Trường An tại phường Hoài Thanh có diện tích 23,74ha. Dự án này cũng hướng tới xây dựng khu ở hiện đại với đầy đủ hạ tầng xã hội và kỹ thuật. Khu vực này sẽ có 491 thửa đất nhà ở với tổng diện tích khoảng 74.017m2.

UBND tỉnh Bình Định yêu cầu Sở Xây dựng phối hợp với các cơ quan liên quan công bố và quản lý quy hoạch theo quy định. Các sở ngành và đơn vị liên quan cũng được giao nhiệm vụ rà soát và triển khai dự án theo đúng quy định pháp luật.

]]>
Hoàn thiện quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị để tháo gỡ bất cập từ thực tiễn https://trithucdoanhnhan.net/hoan-thien-quy-dinh-cua-phap-luat-ve-quy-hoach-do-thi-de-thao-go-bat-cap-tu-thuc-tien/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:52 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1481

Sau khi Luật Quy hoạch đô thị và Luật Xây dựng được thông qua và có hiệu lực, đến nay đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật để đưa các Luật này vào cuộc sống.

Quá trình triển khai Luật đã thu được những kết quả quan trọng, toàn diện trên lĩnh vực phát triển đô thị và nông thôn. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện cũng đã xuất hiện một số tồn tại, bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng; những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các pháp luật chuyên ngành có liên quan cần giải quyết để hệ thống đô thị Việt Nam phát triển như mục tiêu mà Nghị quyết 06NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra.

Hoàn thiện quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị để tháo gỡ bất cập từ thực tiễn
Đô thị hóa đã thực sự góp phần tạo ra nguồn lực trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Tạo nguồn lực để phát triển bền vững

Theo báo cáo của Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia, qua 12 năm thực hiện (2009 – 2021), Luật Quy hoạch đô thị đã đạt được những kết quả nhất định về phát triển kinh tế. Đô thị hóa đã thực sự góp phần tạo ra nguồn lực trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Các đô thị đã trở thành động lực tăng trưởng kinh tế cả nước, đóng góp khoảng 70 – 75% GDP toàn quốc; chỉ riêng TP. Hà Nội và TP.HCM chiếm 57%, các chỉ số thu ngân sách của các vùng tỉnh và các đô thị lớn cho thấy nhìn chung tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị đạt trung bình từ 12 – 15%, cao gấp 1,2 đến 1,5 lần so với mặt bằng chung trong cả nước. Riêng Thủ đô Hà Nội và TP.HCM đóng góp khoảng 30% GDP.

Cùng với sự phát triển nhanh về các mặt kinh tế – xã hội, hệ thống đô thị Việt Nam đang phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô dân số đô thị. Theo Tổng cục Thống kê, trong thời kỳ 1999 – 2020 hệ thống đô thị Việt Nam đã tăng về số lượng và quy mô dân số đô thị. Năm 1999 cả nước có 604 đô thị (tỷ lệ đô thị hóa 23,61%), năm 2010 có 755 đô thị (tỷ lệ đô thị hóa 30,39%), năm 2015 có 787 đô thị (tỷ lệ đô thị hóa khoảng 33,9%), năm 2020 là 862 đô thị (tỷ lệ đô thị hóa 36,8%). Tốc độ đô thị hóa đạt trung bình 3,5%/năm và tỷ lệ đô thị hóa sau mỗi 10 năm tăng từ 5 – 6% trong suốt 30 năm qua (từ 1990 đến 2020). Năm 1999 tỷ lệ đô thị hóa mới chỉ đạt 23,61% thì đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hóa đã tăng lên 36,8%. Tuy nhiên, nếu thống kê cả các khu vực được công nhận là đô thị mới, đô thị loại V (chưa phân loại hành chính là thị trấn, thị xã…) thì tỷ lệ đô thị hóa năm 2020 đạt gần 40%.

Giai đoạn 10 năm xây dựng nông thôn mới (2010 – 2020) theo tinh thần Nghị quyết 26 Hội nghị lần 7 của Ban chấp hành Trung ương Khóa X đã làm thay đổi to lớn, toàn diện, tạo nên bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển nông thôn Việt Nam từ trước và sau đổi mới đến nay, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển toàn diện nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn tới. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã vượt qua 10 năm đầu tiên của giai đoạn “chuyển đổi” cấu trúc nông nghiệp theo khung đánh giá của thế giới. Nông nghiệp đang chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế, năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng cao nhờ phát huy theo chiều sâu, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ. Điều chỉnh khá thành công cơ cấu sản xuất từng ngành, từng lĩnh vực ở các vùng miền nhờ phát huy mạnh lợi thế của mỗi địa phương và cả nước gắn với nhu cầu thị trường. Thu nhập, đời sống người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm nhanh. Cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã và trong các điểm dân cư nông thôn trên toàn quốc được nâng cấp và xây dựng mới, đặc biệt là giao thông nông thôn tạo nên sự thay đổi đáng kể về bộ mặt không gian nông thôn. Đến năm 2021, toàn quốc có 213 huyện/thị xã đạt chuẩn huyện nông thôn mới và trên 68,2% số xã đạt chuẩn xã nông thôn mới. Đến nay gần 100% (99,7%) số xã trên toàn quốc đã được lập đồ án quy hoạch chung xây dựng xã.

Xuất hiện bất cập khi Luật đi vào cuộc sống

Cũng theo báo cáo của Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia, qua rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và lĩnh vực quy hoạch đô thị nói riêng thì còn có một số tồn tại. Ở góc độ bộ luật, có sự chồng chéo và chưa thống nhất giữa Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng. Cụ thể như khu chức năng nằm trong đô thị, khu đô thị nằm trong khu chức năng hoặc trên một địa bàn cùng có khu chức năng và đô thị thì lập quy hoạch theo Luật Xây dựng hay Luật Quy hoạch đô thị? Hay có sự chồng chéo trong các quy định giữa Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng và các Luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công…

Riêng về các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đô thị, qua rà soát các chuyên gia đã chỉ ra một số tồn tại trong công tác lập quy hoạch (quy trình, nội dung…), thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị và nông thôn. Công tác tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch còn chưa thống nhất về căn cứ để các địa phương đưa ra các yêu cầu lập các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật, hoặc chưa rõ về căn cứ lập quy hoạch chi tiết và dự án đầu tư, khái niệm về khu đô thị mới còn chưa thống nhất về quy mô, chưa có quy định cụ thể về khu vực phát triển đô thị, việc lựa chọn nhà thầu tư vấn lập quy hoạch còn phức tạp và tốn nhiều thời gian, thiếu hiệu quả, công tác lấy ý kiến trong quá trình lập nhiệm vụ và quy hoạch, thời gian lập quy hoạch, thời hạn quy hoạch, thời gian hiệu lực của quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng…

Về thẩm định quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng, báo cáo cũng chỉ ra những tồn tại như: Trình tự thẩm định, phê duyệt đối với quy hoạch phân khu khu chức năng nằm trong đô thị; phân quyền trong thẩm định quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng; chồng chéo, bất cập trong nội dung thẩm định, phê duyệt dự toán, chi phí lập quy hoạch giữa Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công; quy định chưa rõ về trách nhiệm tổ chức lập, thẩm định, trình duyệt quy hoạch (chủ đầu tư – đơn vị tư vấn lập – cơ quan thẩm định và phê duyệt quy hoạch); quy định còn phức tạp về thẩm quyền lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng đối với khu vực đặc thù (khu vực cửa khẩu biên giới đất liền….).

Bên cạnh đó, một số vấn đề mà các cấp quản lý có ý kiến trên các diễn đàn của Quốc hội, Chính phủ như: Kinh phí lập quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng được bố trí từ nguồn nào, có được sử dụng từ nguồn tài trợ, hỗ trợ không; quy định về định mức, đơn giá, kinh phí lập quy hoạch tổng mặt bằng sử dụng đất và quy hoạch các ngành lĩnh vực ngoài đô thị chưa có; nguồn vốn và quy trình bố trí vốn đầu tư công cho công tác quy hoạch còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cho kịp thời cho công tác quy hoạch; định mức chi phí lập nhiệm vụ quy hoạch đối với quy hoạch vùng, quy hoạch chung còn thấp….

Cần hợp nhất để đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ

Luật Quy hoạch năm 2017 ra đời đã quy định quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn là một thành phần trong hệ thống quy hoạch quốc gia. Để phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ 2021 – 2030, Đảng và Chính phủ đã ban hành các Chương trình, mục tiêu quốc gia và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội để định hướng xây dựng chính sách phát triển các ngành, lĩnh vực trọng tâm trong thời kỳ mới. Các vấn đề chính trong quy hoạch, quản lý phát triển hệ thống đô thị và nông thôn toàn quốc cần được rà soát, nghiên cứu định hướng để đảm bảo yêu cầu về kiểm soát, quản lý đô thị và nông thôn phù hợp với các định hướng, chính sách phát triển chung của đất nước trong thời gian tới.

Công tác quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn chính là phục vụ mục tiêu xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những bước tiến trong chính sách về nhà ở, quyền sử dụng đất đai, đầu tư, sản xuất, kinh doanh đã tác động quá trình phát triển đô thị và nông thôn, thay đổi cấu trúc của các chủ thể tham gia lập và thực hiện quy hoạch. Muốn đạt được mục tiêu như vậy, thì trước hết cần phải rà soát, đánh giá các văn bản pháp luật, từ đó bổ sung và kiện toàn để làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý. Đây là các nội dung rất quan trọng và có giá trị, là một trong những cơ sở cho việc sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn.

Qua nghiên cứu thực tiễn và nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của một số nước trên thế giới cho thấy xu hướng chung là xây dựng hệ thống văn bản quy định chung cho quy hoạch đô thị và nông thôn. Trên cơ sở tính gợi mở của Luật Quy hoạch, các chuyên gia đề xuất hợp nhất hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn thành Hệ thống văn bản chung cho quy hoạch đô thị và nông thôn.

Cụ thể, đề xuất hợp nhất Luật Quy hoạch đô thị và chương II: Quy hoạch xây dựng trong Luật Xây dựng hợp nhất thành Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn; Nghị định số 37/2010/NĐ-CP, ngày 07/04/2010 của Chính phủ về lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị và Nghị định số 44/2015/NĐ-CP, ngày 06/05/2015 Quy định chi tiết một số nội dung về quy hoạch xây dựng hợp nhất thành Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quy hoạch đô thị và nông thôn; Thông tư số 06/2013/TT-BXD, ngày 13/5/2013 của Bộ Xây dựng hướng dẫn nội dung thiết kế đô thị và Thông tư số 12/2016/TT-BXD, ngày 29/6/2016 của Bộ Xây dựng, quy định về hồ sơ của nhiệm vụ và đồ án xây dựng vùng, quy hoạch đô thị và quy hoạch xây dựng khu chức năng đặc thù kết hợp với Thông tư số 02/2017/TT-BXD ngày 01/3/2017 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số nội dung về quy hoạch xây dựng nông thôn thành Thông tư hướng dẫn của Bộ Xây dựng, quy định về hồ sơ của nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị và nông thôn.

Báo cáo của Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia là bộ tài liệu có giá trị, đề xuất đồng bộ các định hướng sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về Quy hoạch đô thị và nông thôn bao gồm: Định hướng đề xuất sửa đổi bổ sung hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn; Định hướng đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung các vấn đề về quy trình, nội dung đồ án quy hoạch; Định hướng đề xuất nội dung sửa đổi bổ sung các vấn đề về tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch; Định hướng đề xuất nội dung sửa đổi bổ sung các vấn đề về tổ chức thực hiện và quản lý phát triển theo quy hoạch; Định hướng đề xuất cơ chế phối hợp quy hoạch đô thị và nông thôn với các quy hoạch ngành; Định hướng đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung các vấn đề về thi hành luật. Đây là các nội dung căn bản, cụ thể được tổng kết từ thực tiễn và đúc kết từ kinh nghiệm quốc tế, cần được xem xét để sửa đổi, bổ sung cho các văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn cũng như các luật khác để đảm bảo tính khả thi và đồng bộ của hệ thống pháp luật.

]]>
Phát triển mạng lưới đô thị bền vững, giàu tính liên kết và chia sẻ vai trò kinh tế – xã hội https://trithucdoanhnhan.net/phat-trien-mang-luoi-do-thi-ben-vung-giau-tinh-lien-ket-va-chia-se-vai-tro-kinh-te-xa-hoi/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:23 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2355

Nhằm đạt được các mục tiêu trong quy hoạch không gian phát triển quốc gia, cần tăng cường tính liên kết giữa các đô thị, định hướng xây dựng mạng lưới đô thị bền vững, có khả năng chia sẻ chức năng kinh tế – xã hội.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã ban hành kết luận số 45-KL/TW ngày 17/11/2022 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, những năm qua, phát triển và tổ chức không gian phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường trên lãnh thổ đất nước đạt được nhiều kết quả quan trọng. Phát triển vùng, liên kết vùng chuyển biến tích cực, hình thành nhiều vùng kinh tế lớn, quan trọng cho phát triển đất nước. Bước đầu hình thành các hành lang kinh tế trên địa bàn các vùng, liên vùng, nhất là các hành lang gắn với các đô thị lớn. Không gian đô thị được mở rộng, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Kết luận cũng nhìn nhận thực tế tổ chức không gian phát triển vẫn còn một số hạn chế, bất cập, đặc biệt trong quy hoạch mạng lưới đô thị gắn với liên kết vùng kinh tế. Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, tính liên kết còn yếu, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tác động lan tỏa còn hạn chế. Chưa hình thành được các trung tâm tài chính lớn; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch còn dàn trải, hiệu quả thấp; chưa hình thành được các cụm liên kết ngành quốc gia quy mô lớn…

Trong khi đó, từ năm 2009, Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã xác định hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 được phát triển theo mô hình mạng lưới (liên kết mạng), trên cơ sở kịch bản phát triển theo từng giai đoạn, phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo từng thời kỳ và hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ năm 2009 đến năm 2015, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và các khu kinh tế tổng hợp đóng vai trò là cực tăng trưởng chủ đạo cấp quốc gia; từ sau năm 2016 đến năm 2025, ưu tiên phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ; giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2050 chuyển dần sang phát triển theo mô hình mạng lưới đô thị (liên kết mạng).

Như vậy, để đạt được mục tiêu phát triển hệ thống đô thị theo mô hình mạng lưới, nâng cao vai trò của đô thị trong tăng trưởng kinh tế – xã hội, cần giải quyết được vấn đề về tính liên kết giữa các đô thị về cả chiều rộng và chiều sâu. 

Reatimesđã có cuộc trò chuyện với TS.KTS. Lê Phong Nguyên – Trưởng bộ môn Quy hoạch, Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng để mở rộng phạm vi, tiếp cận vấn đề liên kết đô thị và mô hình mạng lưới dưới góc nhìn của khoa học kiến trúc và quy hoạch đô thị. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
TS.KTS. Lê Phong Nguyên lấy bằng Tiến sĩ ngành Kiến trúc tại Đại học Tokyo Metropolitan (Nhật Bản) năm 2017, có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Kiến trúc, Quy hoạch đô thị tại Đại học Đà Nẵng. 

HỆ THỐNG ĐÔ THỊ VIỆT NAM CẦN HÌNH THÀNH ĐƯỢC LIÊN KẾT CHIỀU SÂU 

PV: Chuyên gia đánh giá như thế nào về mạng lưới đô thị Việt Nam hiện nay? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Rõ ràng, chúng ta có thể thấy được trong vòng 10 – 20 năm trở lại đây, số lượng đô thị ở Việt Nam tăng lên rất nhanh, có thể tính theo cấp số nhân. Tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh với tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% vào năm 2010 đến 40,4% vào năm 2020.

Tuy tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng tỷ lệ đô thị hóa tại Việt Nam so với mặt bằng chung trên thế giới và so với các nước trong khu vực ASEAN vẫn còn ở mức tương đối thấp (các nước phát triển có tỷ lệ đô thị hóa trên 80%; Singapore có tỷ lệ 100%; Malaysia, Brunei đạt 75%; Thái Lan đạt 62%). Mặc dù vậy, với dân số đô thị ngày càng tăng nhanh và số lượng đô thị cũng đang tiệm cận con số 1.000 (869 đô thị), Việt Nam đã hình thành được một mạng lưới đô thị trải dài từ Bắc xuống Nam và chạy dọc theo đường bờ biển. Mạng lưới đô thị Việt Nam cũng đã hình thành được những đặc trưng riêng, khác biệt so với các quốc gia hay thành phố khác. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Mạng lưới đô thị Việt Nam đã hình thành được những đặc trưng riêng, khác biệt so với các quốc gia hay thành phố khác.

PV: Ông nhận định như thế nào về thực trạng hệ thống đô thị Việt Nam còn thiếu tính liên kết? Và nguyên nhân của thực trạng này đến từ đâu? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Khái niệm “tính liên kết của đô thị” là một khái niệm rất rộng và bao hàm nhiều nội dung như liên kết về văn hóa, về kinh tế, xã hội, giao thông… Nhìn tổng quan, có thể thấy hệ thống đô thị Việt Nam thiếu sự tương tác, mỗi đô thị còn phát triển theo hướng độc lập và ít có sự hỗ trợ lẫn nhau trong tiến trình tăng trưởng chung. 

Trên thực tế theo nhìn nhận của tôi, đô thị Việt Nam trong quá trình phát triển vẫn còn mang nặng tính địa phương. Trừ hai đô thị đầu tàu là Hà Nội và TP.HCM từ lâu đã hình thành mối liên kết chặt chẽ với các đô thị vệ tinh, các thành phố ở những địa phương khác phát triển khá riêng rẽ và thiếu sự tương tác, liên kết với nhau. 

Bên cạnh đó, điểm hạn chế của đô thị Việt Nam là chủ yếu mở rộng về địa giới hành chính, liên kết về chiều rộng nhưng chưa đủ liên kết về chiều sâu. Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh chủ yếu nhờ vào việc sáp nhập các tỉnh, thành nhỏ, lân cận vào đô thị lớn. Tuy nhiên, bản chất của đô thị hóa không chỉ nằm ở diện tích hay bề rộng mà còn nằm ở chất lượng đời sống đô thị. Có thể thấy rằng chất lượng hay nội lực của đô thị nước ta chưa có nhiều sự chuyển biến rõ rệt, chưa phát triển theo chiều sâu và tương xứng với tốc độ đô thị hóa diễn ra theo chiều ngang. 

Nguyên nhân của thực trạng này đến từ các yếu tố khách quan và chủ quan. Chủ quan là do đô thị Việt Nam phát triển rất nhanh về mặt số lượng và chúng ta vẫn đang trong quá trình hình thành, mở rộng các đô thị mới. Trong giai đoạn này, toàn bộ nguồn lực về kinh tế – xã hội, con người đang được dùng để tập trung xây dựng bản thân đô thị đó. Cho đến nay, có thể nói là chúng ta vẫn đang trên hành trình tìm ra hướng phát triển để nâng cao chất lượng cho từng đô thị, làm thế nào để phát triển kinh tế, quản lý xã hội hay chỉnh trang đô thị sạch, đẹp như câu chuyện gạch lát đá vỉa hè của Hà Nội trong thời gian qua, tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có rất nhiều vấn đề tồn đọng. Do đó, nguồn lực kinh tế – xã hội, con người và cả thời gian để đầu tư cho việc liên kết hệ thống đô thị là chưa có nhiều. 

Nguyên nhân khách quan đến từ việc thiếu quy hoạch và định hướng cụ thể trong cơ chế, chính sách. Chính phủ đã thể hiện vai trò trong việc định hướng tổng quan hình thành và phát triển mạng lưới đô thị, tuy nhiên, chúng ta cần có một hệ thống quản lý và hành lang pháp lý rõ ràng để tạo điều kiện cho các đô thị, các khu vực, các vùng chủ động liên kết, phát huy tiềm năng của mình để xây dựng và phát triển hệ thống đô thị, vùng đô thị hay rộng hơn là mạng lưới đô thị. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Câu chuyện gạch lát đá vỉa hè của Hà Nội trong thời gian qua tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có những vấn đề cần xem xét. (Ảnh: Báo Lao động) 

CẦN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH LÀM NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN

PV: Theo chuyên gia, nên tiếp cận khái niệm “tính liên kết của đô thị” như thế nào để phù hợp với tình hình phát triển của đô thị Việt Nam? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Dưới góc nhìn của một kiến trúc sư và nhà nghiên cứu về quy hoạch, tôi cho rằng nên tiếp cận tính liên kết của đô thị theo hai phương diện là xã hội và kinh tế. 

Về xã hội, khi quá trình đô thị hóa diễn ra, đô thị được hình thành và tiến tới đạt chuẩn các điều kiện cần thiết với những đặc điểm khác biệt hoàn toàn so với nông thôn thì áp lực đặt lên vai người làm chính sách, nhà quy hoạch, nhà quản lý đô thị là vô cùng lớn. Người đứng đầu quản lý đô thị cần làm sao đảm bảo được tất cả điều kiện về môi trường sống như y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, văn hóa, để đảm bảo chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị. Và cũng chính bởi vì chúng ta vẫn đang xoay xở trong câu chuyện xây dựng và quản lý từng đô thị riêng lẻ nên áp lực này càng trở nên nặng nề. Trong khi đó, việc gắn kết các đô thị có thể giảm gánh nặng cho từng khu vực khi mà các thành phố có thể chia sẻ với nhau vai trò xã hội trong bức tranh chung. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
“Nên tiếp cận tính liên kết của đô thị theo hai phương diện là xã hội và kinh tế”. (Ảnh minh họa: Vietnam Plus)

Ví dụ đối với vấn đề nhân lực, khi chúng ta xây dựng một cụm trường đại học và định hướng nguồn nhân lực đầu ra không chỉ phục vụ cho một tỉnh, một thành phố mà sẽ làm việc tại nhiều tỉnh, nhiều thành phố lân cận trong một khu vực rộng lớn thì từ đó sẽ giải quyết được bài toán nhân lực trong các đô thị cùng thuộc một mạng lưới. Sẽ không còn tình trạng thành phố này thừa nhân lực nhưng ngay tỉnh thành lân cận lại thiếu người làm. Hay liên kết chặt chẽ về hạ tầng giao thông có thể giúp giảm gánh nặng về nhà ở với đô thị trung tâm, khi mà người lao động có thể di chuyển nhanh và dễ dàng giữa hai thành phố để sống và làm việc. 

Tương tự, liên kết đô thị trên phương diện kinh tế cũng sẽ giúp cho mỗi thành phố, mỗi khu vực có thể đẩy mạnh khai thác tiềm năng kinh tế của chính mình và kết hợp, thúc đẩy lợi ích kinh tế của các đô thị lân cận để tạo ra một vùng kinh tế vững mạnh.

Ví dụ, về du lịch, ở khu vực miền Trung, chúng ta có Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, mỗi tỉnh, thành phố lại có tiềm năng du lịch, giá trị văn hóa và di sản khác nhau. Việc kết hợp với nhau để tạo ra một cụm điểm đến du lịch hấp dẫn có thể giúp cho các đô thị trong một khu vực có thể cùng thúc đẩy hoạt động du lịch mạnh mẽ hơn, thu hút nhiều vốn đầu tư hơn. Thay vì mỗi thành phố đều tự tìm cách giải quyết bài toán kinh tế của chính mình một cách độc lập, liên kết đô thị sẽ là công cụ để khai thác tiềm năng nhanh, hiệu quả và bền vững. 

Cần phải nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh thế giới hiện nay, các đô thị ngày càng cạnh tranh gay gắt với nhau, không chỉ trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi khu vực, châu lục và toàn cầu. Đô thị Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, do đó còn thiếu những điều kiện về quy mô, chất lượng nếu so sánh với những đô thị khác. Nếu hệ thống đô thị còn chậm liên kết thì chất lượng và tốc độ phát triển đô thị của chúng ta sẽ có nguy cơ thụt lùi so với các quốc gia khác, trước mắt là trong khu vực Đông Nam Á. 

PV: Đối với mô hình mạng lưới đô thị, chúng ta nên tiếp cận và tư duy như thế nào, thưa ông? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Thực tế cho thấy, chúng ta đã hình thành mô hình mạng lưới đô thị ở hai đầu Bắc – Nam là Hà Nội và TP.HCM. Mô hình mạng lưới thể hiện ở việc Hà Nội hay TP.HCM là đô thị trung tâm và là vùng lõi, liên kết với các đô thị vệ tinh xung quanh. Chúng ta cũng đã thấy được hiệu quả của mô hình này khi mà khu vực đô thị trung tâm Bắc – Nam phát triển khá tốt và thu hút dòng vốn đầu tư mạnh mẽ cả trong và ngoài nước. 

Tuy nhiên, so với hai đầu Bắc – Nam thì mạng lưới đô thị ở miền Trung còn khá rời rạc và thiếu tính liên kết, dẫn đến nhiều vấn đề như vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI) chảy khá ít và khá chậm vào khu vực này. Lý do là bởi nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư vào một khu vực nào thì họ đều phải xem xét nhiều vấn đề về quy mô và chất lượng của môi trường đầu tư của khu vực đó. Do sự khác biệt căn bản về địa lý, cơ cấu kinh tế, con người và xã hội, không thể áp dụng một cách rập khuôn mô hình mạng lưới lấy một đô thị làm trung tâm như ở Hà Nội, TP.HCM vào các tỉnh miền Trung hay những khu vực khác mà cần có sự điều chỉnh để phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan của khu vực.

Nghĩa là chúng ta cần có mô hình mạng lưới đô thị tương tự như Hà Nội, TP.HCM nhưng ở nhiều cấp độ khác nhau và phát huy thế mạnh đặc trưng của vùng. Dựa trên tiềm năng riêng của mỗi khu vực, mỗi vùng mà mô hình mạng lưới phải có sự linh hoạt, xây dựng hệ thống quản lý phù hợp để tạo tiền đề cho vùng đó phát triển.

PV: Vậy đâu là giải pháp để tăng cường tính liên kết trong hệ thống đô thị Việt Nam, thưa ông? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Như đã trình bày, thực trạng đô thị nước ta còn thiếu tính liên kết xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trên cơ sở đó, giải pháp khắc phục cũng sẽ được tiếp cận từ góc độ vĩ mô và vi mô. 

Ở cấp độ vĩ mô, vai trò của Chính phủ trong quy hoạch mạng lưới đô thị là vô cùng quan trọng. Khi Chính phủ đã đưa ra quyết sách là phải phát triển đô thị Việt Nam theo mô hình mạng lưới, có sự tương tác qua lại, có tính liên kết chặt chẽ thì kèm theo đó cũng cần có chính sách, cơ chế và hành lang pháp lý làm nền tảng phát triển cho địa phương. Để mỗi khu vực có thể phát huy được tối đa tiềm lực địa phương, Chính phủ cần bổ sung chính sách cụ thể, có sự phân quyền, phân chia chức năng rõ ràng cho từng đô thị, từng khu vực, từng vùng. Từ đó mỗi đô thị có thể phát huy tiềm năng của mình một cách hiệu quả hơn và cũng tránh được hiện tượng địa phương muốn tổ chức liên kết đô thị trong khu vực nhưng không được định hướng cụ thể cách làm và cũng không rõ làm như thế nào là đúng, như thế nào là chưa phù hợp với quy định chung. 

Ở cấp độ vi mô, mỗi địa phương cũng cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân để tăng cường nội lực của đô thị. Bởi một đô thị có nội lực yếu cũng rất khó để liên kết với các đô thị khác và cùng nhau hợp lực tạo nên sức mạnh mà thay vào đó có thể trở thành gánh nặng của những đô thị, khu vực khác, nhất là trong trường hợp đã xây dựng được hành lang pháp lý ràng buộc lẫn nhau giữa các đô thị. Địa phương có vai trò trọng tâm trong việc nâng cao chất lượng môi trường sống đô thị, đảm bảo các điều kiện y tế, văn hóa, giáo dục, giao thông, môi trường phục vụ đời sống cả vật chất và tinh thần cho người dân để thúc đẩy phát triển nội lực của mỗi thành phố.

Kết hợp các điều kiện vĩ mô và vi mô, hệ thống đô thị Việt Nam có thể phát triển bền vững theo mô hình mạng lưới, liên kết mạnh mẽ về cả kinh tế và xã hội, từ đó thể hiện vai trò quan trọng trong thực hiện những mục tiêu tăng trưởng chung của đất nước. 

PV: Trong giai đoạn 5 đến 10 năm tới với bối cảnh kinh tế – xã hội như hiện tại, theo quan điểm của chuyên gia, đâu sẽ là mục tiêu cụ thể quan trọng trong định hướng phát triển mạng lưới đô thị tại Việt Nam? 

TS.KTS. Lê Phong Nguyên: Đương nhiên, chúng ta không thể chỉ thực hiện một mục tiêu nào đó để đạt được hệ thống đô thị phát triển vững mạnh với mạng lưới liên kết chặt chẽ mà cần kết hợp thực hiện nhiều mục tiêu với cùng một định hướng cụ thể. 

Theo quan điểm của tôi, để phát triển mạng lưới đô thị, trước hết chúng ta cần duy trì, phát huy những thành tựu đã đạt được và đặc biệt tập trung vào liên kết hạ tầng như giao thông, hạ tầng thông tin, hạ tầng kỹ thuật. Hạ tầng là cơ sở, nền tảng và là điều kiện cần để phát triển các lĩnh vực khác, trong khi đó hiện nay chất lượng hạ tầng đô thị và hạ tầng liên kết đô thị, liên kết vùng ở Việt Nam còn không ít hạn chế. 

mạng lưới đô thị, hệ thống đô thị, quy hoạch đô thị, đô thị bền vững, hạ tầng đô thị
Hạ tầng giao thông vẫn còn là điểm hạn chế tại không ít thành phố của nước ta. (Ảnh minh họa: Vietnam Plus) 

Đơn cử như một số tuyến quốc lộ, có vai trò là tuyến giao thông huyết mạch đi qua địa bàn nhiều tỉnh, hiện nay đang xuống cấp nghiêm trọng như Quốc lộ 1A. Đó cũng chính là một điểm hạn chế, vướng mắc cản trở sự liên kết, tương tác giữa các tỉnh và thành phố. Nếu hạ tầng chưa thể đáp ứng các điều kiện cơ bản về chất lượng và số lượng thì cũng rất khó để các thành phố, khu vực và vùng liên kết với nhau một cách hiệu quả. 

– Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

]]>
Hà Nội phê duyệt 3 đồ án quy hoạch phân khu đô thị vệ tinh Phú Xuyên https://trithucdoanhnhan.net/ha-noi-phe-duyet-3-do-an-quy-hoach-phan-khu-do-thi-ve-tinh-phu-xuyen/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:12 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2595

Mới đây, UBND TP. Hà Nội đã phê duyệt đồ án quy hoạch 3 phân khu đô thị vệ tinh Phú Xuyên, tạo điều kiện để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Định hướng hình thành khu vực đô thị đa chức năng

Ngày 5/12/2022, UBND TP. Hà Nội đã ban hành các Quyết định số 4784/QĐ-UBND, phê duyệt đồ án quy hoạch phân khu đô thị vệ tinh (ĐTVT) Phú Xuyên khu 1, tỷ lệ 1/2.000; Quyết định số 4786/QĐ-UBND phê duyệt đồ án quy hoạch phân khu ĐTVT Phú Xuyên khu 2, tỷ lệ 1/2.000; Quyết định số 4790/QĐ-UBND phê duyệt đồ án quy hoạch phân khu ĐTVT Phú Xuyên khu 3, tỷ lệ 1/2.000. 

Được biết, ĐTVT Phú Xuyên được phê duyệt quy hoạch từ năm 2015 (theo Quyết định số 3996/QĐ-UBND) và Nhiệm vụ quy hoạch phân khu đô thị Phú Xuyên (Khu 1, Khu 2, Khu 3) cũng đã được UBND TP. Hà Nội phê duyệt vào năm 2016. Đến nay, sau nhiều năm chờ đợi, 3 đồ án phân khu ĐTVT lần đầu tiên được công bố, là dấu mốc quan trọng để huyện Phú Xuyên, Thường Tín kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. 

Chiều ngày 30/12, Sở Quy hoạch – Kiến trúc Hà Nội đã phối hợp với UBND các huyện Phú Xuyên, Thường Tín tổ chức hội nghị công bố 3 đồ án quy hoạch phân khu thuộc ĐTVT Phú Xuyên. Theo thuyết minh của đại diện Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội (đơn vị lập quy hoạch), quy mô và định hướng phát triển của 3 phân khu cụ thể như sau: 

Khu 1 thuộc địa giới hành chính 3 xã Tô Hiệu, Văn Tự, Minh Cường (huyện Thường Tín) và 3 xã Phượng Dực, Đại Thắng, Quang Trung (huyện Phú Xuyên). Quy mô diện tích nghiên cứu khoảng hơn 893ha, dân số đến năm 2030 đạt gần 29.000 người. Phân khu được xác định là khu trung tâm hành chính, thương mại, có vai trò hạt nhân phát triển của đô thị vệ tinh Phú Xuyên với các chức năng ở, thương mại, dịch vụ hỗn hợp. Đồng thời, phân khu 1 cũng được xác định là trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực tại khu vực Phú Xuyên và vùng lân cận. Hệ thống trung tâm đào tạo tập trung vào những ngành nghề ưu tiên như sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học… và dạy nghề cho nhu cầu lao động của vùng. Phân khu 1 cũng nằm trong vùng trung tâm tiếp vận giữa đường sắt và đường bộ gắn với khu vực ga Phú Xuyên, có vai trò phân phối, lưu giữ và trung chuyển, định hướng phát triển dịch vụ vận tải và logistic. 

Định hướng hình thành khu vực đô thị đa chức năng
Phối cảnh minh họa tổ chức 3 phân khu ĐTVT Phú Xuyên. (Ảnh: Kinh tế Đô thị)

Khu 2 thuộc địa giới hành chính xã Minh Cường (huyện Thường Tín) và xã Sơn Hà, Nam Phong, Phúc Tiến, thị trấn Phú Xuyên (huyện Phú Xuyên). Quy mô diện tích nghiên cứu khoảng hơn 1.145ha, dân số đến năm 2030 đạt hơn 36.000 người. 

Theo quy hoạch, phân khu có vai trò là trung tâm y tế, thể dục thể thao cấp vùng và tiến tới trở thành trung tâm phát triển hỗn hợp khu vực cửa ngõ phía Nam Hà Nội nhằm giảm sức ép về phát triển trong đô thị trung tâm. Đây cũng là đô thị cải tạo và đô thị mới bao gồm các chức năng ở, thương mại, dịch vụ với đặc trưng nhiều hồ nước, kênh mương. 

Khu 3 thuộc địa giới hành chính các xã Tô Hiệu, Thống Nhất, Văn Từ, Vạn Điểm, Minh Cường (huyện Thường Tín) và các xã Nam Tiến, Nam Triều, Nam Phong, thị trấn Phú Xuyên, thị trấn Phú Minh (huyện Phú Xuyên). Quy mô diện tích nghiên cứu khoảng gần 2.000ha, dân số đến năm 2030 đạt hơn 61.000 người. 

Phân khu có vai trò là trung tâm dịch vụ công nghiệp của đô thị Phú Xuyên (thị trấn Phú Minh), tiếp vận gắn với cảng Phú Xuyên có vai trò phân phối, lưu giữ và trung chuyển giữa Hà Nội và vùng xung quanh. Đây cũng là khu vực đáp ứng một phần nhu cầu di chuyển các khu công nghiệp hiện có trong khu vực trung tâm, từ đó hình thành trung tâm nghiên cứu và ứng dụng công nghiệp công nghệ cao. Phân khu 3 cũng là vùng không gian sinh thái chuyển tiếp, giới hạn sự phát triển của khu vực đô thị và bảo vệ cảnh quan dọc sông Hồng. 

Như vậy, theo quy hoạch, 3 phân khu đô thị vệ tinh Phú Xuyên được định hướng phát triển với đầy đủ các chức năng về nhà ở, sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, y tế, giáo dục, văn hóa, giải trí. Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Dương Đức Tuấn nhấn mạnh, đô thị vệ tinh Phú Xuyên là một trong 5 đô thị vệ tinh của thành phố theo mô hình chùm đô thị, có vai trò chia sẻ sự phát triển với khu vực trung tâm về công nghiệp và dịch vụ gắn với cảng và đầu mối tiếp vận cửa ngõ phía Nam Hà Nội với đa chức năng, được quy hoạch là trung tâm kinh tế thúc đẩy đô thị hóa khu vực nông thôn và đô thị sinh thái, giàu bản sắc văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng. 

Định hướng hình thành khu vực đô thị đa chức năng
Đô thị vệ tinh Phú Xuyên được định hướng phát triển thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ phía Nam Hà Nội. (Ảnh minh họa: Vietnambiz) 

Tăng cường liên kết hạ tầng để thu hút đầu tư, khai thác tiềm lực

Đô thị vệ tinh Phú Xuyên cách trung tâm thành phố 40km về phía Nam, có diện tích khoảng 3.982ha gồm địa giới của 8 xã, 2 thị trấn thuộc huyện Phú Xuyên và 5 xã thuộc huyện Thường Tín. Theo Quy hoạch chung ĐTVT Phú Xuyên đến năm 2030 của UBND TP. Hà Nội, diện tích đất xây dựng đô thị đến năm 2030 khoảng 2.883,5ha. Trong đó, đất dân dụng đô thị khoảng 1.090,5ha, chiếm 27,4% diện tích lập quy hoạch; đất khác trong phạm vi dân dụng khoảng 685ha, chiếm 17,2%; đất xây dựng ngoài phạm vi dân dụng khoảng 1.107,5ha, chiếm 27,8%. 

ĐTVT Phú Xuyên có vai trò là trung tâm tiếp cận vùng, thúc đẩy trao đổi hàng hóa, thương mại trong hành lang phát triển liên vùng giữa Thủ đô với các tỉnh trong Vùng Thủ đô, với Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trực tiếp là Hòa Bình, Hưng Yên, Hà Nam. Với vị trí địa lý thuận lợi, ĐTVT Phú Xuyên cũng có nhiều tiềm lực phát triển kinh tế – xã hội. 

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, huyện Phú Xuyên là mảnh đất “trăm nghề” với 43 làng nghề đã được thành phố công nhận. Sản phẩm của các làng nghề hàng may mặc Vân Từ, giày da Phú Yên, khảm trai Chuyên Mỹ, đồ gỗ Tân Dân, Văn Nhân… có chất lượng tốt, được ưa chuộng trên thị trường. Với 41.000 lao động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, Phú Xuyên cũng có nguồn nhân lực lành nghề, năng động, có kinh nghiệm phong phú. Sau thời gian 2 năm ảnh hưởng vì đại dịch Covid-19, gần đây, các hộ kinh doanh tiểu thủ công nghiệp tại huyện Phú Xuyên cũng đã có sự chuyển dịch sang kênh bán hàng online, thương mại điện tử, đồng thời ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào dây chuyền sản xuất. 

Tăng cường liên kết hạ tầng để thu hút đầu tư, khai thác tiềm lực
Sản phẩm gỗ chạm khắc của làng nghề Đại Nghiệp, Tân Dân, Phú Xuyên. (Ảnh: Hoanhap.vn) 

Về nông nghiệp, huyện Phú Xuyên đã thực hiện tốt việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, trong đó, tập trung phát triển nhiều mô hình nuôi trồng đặc sản. Đến năm 2022, tổng diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trên địa bàn huyện là trên 2.830ha. Sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, cơ cấu cây trồng của huyện đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi và thủy sản. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện đã tăng lên trên 2.500ha, trong đó: vùng nuôi chuyên canh là 2.338ha, nuôi hình thức khác là 174,18ha. Tương tự, huyện Thường Tín cũng đã có 28/28 xã đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2021. Đến quý III/2022, huyện có 55 hợp tác xã nông nghiệp; 14 mô hình liên kết chuỗi trồng trọt, chăn nuôi, giết mổ; 15 mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch. 

Tăng cường liên kết hạ tầng để thu hút đầu tư, khai thác tiềm lực
Trong năm 2021, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Thường Tín ước đạt 1.680 tỷ đồng. (Ảnh: Lê Tuấn) 

Về giao thông, ĐTVT Phú Xuyên có đầu mối giao thông đa dạng bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy. Hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện với quốc lộ 1A, cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, tuyến Đỗ Xá – Quan Sơn, đường 429, tuyến Ngọc Hồi – Phú Xuyên. Thêm vào đó là tuyến đường sắt Bắc – Nam dài 12km, đường thủy sông Hồng dài 17km. Đây là điều kiện tiên quyết giúp ĐTVT Phú Xuyên có được lợi thế lớn về giao thông vận tải, phát triển dịch vụ vận chuyển và trao đổi hàng hóa với các tỉnh thành lân cận. 

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Xuân Thanh, Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên, để biến quy hoạch 3 phân khu ĐTVT thành hiện thực là thách thức, khó khăn với hai huyện bởi nguồn lực còn hạn chế. Trong thời gian tới, hai huyện Thường Tín, Phú Xuyên sẽ tập trung vào công tác quản lý sử dụng đất và rà soát, kêu gọi đầu tư, từng bước hình thành ĐTVT Phú Xuyên theo đúng định hướng quy hoạch đã được duyệt. Bên cạnh đó, lãnh đạo huyện Phú Xuyên cũng kiến nghị thành phố đầu tư, nâng cấp hạ tầng giao thông trên địa bàn huyện để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, phát triển khu vực thành trung tâm công nghiệp, thương mại. 

Đồng ý với kiến nghị trên, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Dương Đức Tuấn cũng cho rằng thành phố và địa phương cần tập trung nguồn lực cho các dự án hạ tầng giao thông khung của đô thị vệ tinh. Trong đó bao gồm: trục Ngọc Hồi – Phú Xuyên đoạn từ Vành đai 4, đường tỉnh 428B, đường cao tốc Phú Xuyên 1, Phú Xuyên 2, đường trục chính đô thị, các trung tâm tiếp vận, hệ thống ga đường sắt, tuyến xe buýt, xe khách liên tỉnh, bến xe và sắp xếp lại bến thủy nội địa. 

Có thể thấy, để đạt được các mục tiêu của đồ án quy hoạch 3 phân khu ĐTVT Phú Xuyên, cần phải giải quyết nhiều thách thức về liên kết hạ tầng cấp khu vực, cấp vùng; thu hút đầu tư phát triển hạ tầng dân cư, thương mại, dịch vụ, công nghiệp; tăng cường khai thác tiềm lực sẵn có trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao. Với tiền đề pháp lý vững chắc, trong tương lai khu ĐTVT Phú Xuyên sẽ có thể vươn lên trở thành khu vực tăng trưởng kinh tế – xã hội đáng kể của Thủ đô, là điểm sáng phía Nam thành phố và chia sẻ áp lực phát triển với khu vực trung tâm./.

]]>
Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững https://trithucdoanhnhan.net/de-quy-hoach-do-thi-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-ben-vung/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:48 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3182

Quy hoạch đô thị là nền tảng định hướng, thúc đẩy quá trình đô thị hóa, hài hòa lợi ích kinh tế và môi trường. Song, thực tế công tác quy hoạch đô thị vẫn đang tạo ra một số rào cản cho sự phát triển bền vững.

Ngày 27/1, Văn phòng Chính phủ đưa ra Thông báo số 14/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị Đô thị toàn quốc năm 2022, phổ biến và triển khai Nghị quyết số 148/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thông báo nêu rõ, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW đã đề ra 15 nhóm chỉ tiêu cụ thể hướng tới phát triển đô thị xanh, đảm bảo vệ sinh môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó biến đổi khí hậu, thông minh và phát triển bền vững. Các chỉ tiêu đề ra khá cao, do vậy, để hoàn thành cần có tư duy, cách tiếp cận mới và nỗ lực rất lớn trong thực hiện. 

Một số chuyên gia quy hoạch nhận định, việc quy hoạch đô thị Việt Nam còn phải thay đổi mới đáp ứng được được yêu cầu phát triển bền vững.

Quy hoạch đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

Theo GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng, Nguyên Vụ trưởng, Chủ nhiệm VP thường trực, Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, quy hoạch đô thị ở Việt Nam được lập trên cơ sở của phương pháp quy hoạch tổng thể triển khai từ những năm 1960, khi nước ta còn phát triển với cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung.

“Phương pháp quy hoạch này có khá nhiều hạn chế, như quy hoạch phát triển theo từng ngành riêng biệt và độc lập; chủ yếu dựa vào các đặc điểm của đô thị lý tưởng, thậm chí tách rời sự phát triển thực tế, với quá nhiều luật lệ nhưng việc điều hành không tốt. Ngoài ra, việc tiếp thị đô thị và sự tiếp cận với vốn địa phương cũng như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa hiệu quả”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nêu.

Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng. Ảnh: Tạp chí Kiến trúc

Trong đó, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhấn mạnh, quy hoạch sử dụng đất là nội dung cơ bản trong quy hoạch đô thị, tuy nhiên hiện nay việc quản lý sử dụng đất đô thị còn nhiều bất cập do có sự chồng chéo trong áp dụng hệ thống văn bản pháp luật giữa ngành tài nguyên, môi trường và ngành xây dựng (theo Luật Đất đai và Luật Quy hoạch đô thị); bất cập trong việc phân loại đất đô thị; bất cập trong việc xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất.

“Đơn cử như quy hoạch chung được thực hiện theo phương pháp tổng thể, theo tầm nhìn dài hạn, không xác định được nguồn lực thực hiện nên khả năng thực thi không cao. Nhiều đồ án quy hoạch chung được triển khai rất chi tiết cho giai đoạn dài hạn (như xác định hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng cho từng lô đất ở giai đoạn dài hạn, khoảng 20 năm sau) là khó khả thi, thậm chí là rào cản cho các quy hoạch cấp dưới”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhận định.

Ngoài ra, theo GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng, quy hoạch phân khu được thực hiện với việc quy định cụ thể về chức năng sử dụng đất trên nền tảng hiện trạng và dự án đã có, song quy định về sử dụng đất thiếu linh hoạt dẫn tới việc liên tục phải điều chỉnh cục bộ.

Công tác điều chỉnh quy hoạch đang thường xuyên diễn ra, với các quy mô và mức độ khác nhau ở các loại đồ án quy hoạch đô thị. Việc điều chỉnh này do dự báo phát triển chưa phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của thực tiễn; thông tin số liệu hiện trạng về quy hoạch, đất đai, dự án… không đầy đủ và thiếu hệ thống.

Nêu thực trạng quy hoạch chi tiết tại các địa phương, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng cho biết: “Quy hoạch chi tiết tại nhiều địa phương bị điều chỉnh tùy tiện, không đúng quy trình, thủ tục, thường có xu hướng tăng tầng cao, mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất trong khi giảm diện tích công cộng và cây xanh, điều này dẫn đến việc quá tải lên hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong các khu đô thị”.

Từ thực tế đó, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nhấn mạnh, quy hoạch đô thị cần được lập theo hướng đa ngành và hợp nhất trong một hồ sơ quy hoạch, do chủ nhiệm đồ án tổng hợp. Các nội dung này có thể được đề xuất bởi các lĩnh vực chuyên môn, các chuyên ngành khác nhau nhưng không nên có các quy hoạch riêng.

Ngoài ra, quy hoạch cần dựa vào cơ sở thực thi của đô thị và tôn trọng quy luật thị trường, chỉ quy hoạch những cái gì có thể làm được, kể cả tính khả thi về tổ chức không gian và nguồn tài chính thực hiện.

“Trong đồ án quy hoạch chung đô thị không nên quy định những chỉ tiêu cứng nhắc, mà chỉ nên quy định những điều được khuyến khích làm và những điều phải ngăn cấm.

Đối với các quy hoạch phân khu và chi tiết các khu vực cụ thể, cần chọn những hành động cụ thể để thực hiện, căn cứ vào nhu cầu và nguồn lực của các nhà đầu tư phát triển đô thị, cho một thời gian nhất định”, GS.TS.KTS. Nguyễn Tố Lăng nêu.

Giải pháp quản lý tạm thời các khu đất lớn đang chờ triển khai dự án đô thị hoá

Các chuyên gia đánh giá, thực tế ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và ngay cả ở các đô thị nhỏ hơn, hiện tượng đất đô thị mòn mỏi chờ dự án triển khai vẫn khá phổ biến.

Theo ông Emmanuel Cerise, Giám đốc PRX-Vietnam, hầu hết các đô thị Việt Nam hiện nay đều đang phải đối mặt với một thực trạng lãng phí nguồn lực đất đai khi nhiều quỹ đất đã được giao cho các dự án đô thị lớn, nhưng không được triển khai thực hiện đúng thời hạn vì nhiều lý do khác nhau. Ngoài ra, một số khu vực hoặc công trình nằm ngay bên trong các khu đô thị đã được xây dựng, thậm chí là các công trình lịch sử, cũng rơi vào tình trạng bị lãng phí do các dự án có liên quan chậm triển khai thực hiện.

Để quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
Ông Emmanuel Cerise, Giám đốc PRX-Vietnam. Ảnh: Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Để giải quyết vấn đề này, ông Emmanuel Cerise chia sẻ kinh nghiệm quy hoạch cho giai đoạn quá độ ở đô thị ở Pháp trong hơn 10 năm qua, đặc biệt ở Vùng Île-de-France, nhằm khai thác tối ưu quỹ đất trong các giai đoạn chờ triển khai dự án chính thức.

“Những khu đất bị bỏ hoang trước đây tại Vùng Île-de-France thường bị đánh giá một cách tiêu cực, nhất là trong bối cảnh thủ đô nước Pháp luôn phải chịu nhiều áp lực lớn về quỹ đất cho phát triển. Vì vậy, việc áp dụng quy hoạch giai đoạn quá độ sẽ thay đổi hình ảnh và giá trị cho các dự án, đồng thời thay đổi cả cách thức phát triển đô thị.

Ngay cả trong trường hợp dự án quy hoạch giai đoạn quá độ không liên quan đến dự án đô thị lâu dài thì ít nhất các nhà quy hoạch cũng tạo được sức sống nhất định và khai thác được các tiềm năng thông thường sẽ bị “đóng băng” trong thời gian chờ thực hiện các nghiên cứu quy hoạch đối với dự án trong tương lai”, Giám đốc PRX-Vietnam nói.

Nhìn nhận về vấn đề này tại Việt Nam, ông Emmanuel Cerise đánh giá, tuy chưa phổ biến nhưng một số thử nghiệm về chuyển đổi công năng đã từng được thực hiện, đặc biệt là với trường hợp khu Zone 9 ở Hà Nội – địa điểm quy tụ các hoạt động văn hóa tại một khu đất công nghiệp bị bỏ hoang tạm thời sau khi thỏa thuận được với chủ sở hữu của địa điểm này.

Giám đốc PRX-Vietnam cũng cho rằng, việc Unesco công nhận Hà Nội thuộc Mạng lưới các thành phố sáng tạo và sự quan tâm của chính quyền thành phố đối với chủ đề này và ngành công nghiệp văn hóa có thể là một phương tiện để phát triển quy hoạch trong giai đoạn quá độ. Còn tại TP. HCM, chủ trương phát triển thành phố thông minh Thủ Đức với các quy định cụ thể cũng có thể là cơ hội cho loại hình quy hoạch này.

Xét trên bình diện rộng hơn, các nỗ lực đổi mới đô thị tại các khu trung tâm hiện có của các đô thị khác như Hải Phòng, Quy Nhơn, Huế… cũng sẽ tạo ra khung thời gian dài để thực hiện các dự án phức tạp.

“Các đô thị Việt Nam nói chung, các đô thị lớn nói riêng hiện nay thiếu không gian công cộng, văn hóa, sân chơi thể thao. Việc sử dụng đất chờ dự án, trong một thời gian dài hoặc thậm chí trong một thời gian tương đối ngắn vài tháng, có thể được khai thác để bù đắp khoảng trống này. Các mô hình khai thác sân bóng mini hiện nay thường đòi hỏi rất ít kinh phí đầu tư và trang thiết bị. Với những địa điểm dành cho sáng tạo nghệ thuật đôi khi cũng không cần đầu tư quá nhiều về cơ sở hạ tầng”, ông Emmanuel Cerise đề xuất./.

]]>