Quy hoạch tổng thể quốc gia – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:58:22 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Quy hoạch tổng thể quốc gia – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Đề xuất quy trình lập quy hoạch tổng thể quốc gia https://trithucdoanhnhan.net/de-xuat-quy-trinh-lap-quy-hoach-tong-the-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:15 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2531

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch.

Dự thảo bổ sung quy định về “Quy trình lập quy hoạch tổng thể quốc gia”. Theo đó, việc phối hợp giữa các cơ quan tham gia lập quy hoạch tổng thể quốc gia theo quy định tại điểm b, c và e khoản 1 Điều 16 Luật Quy hoạch được thực hiện như sau:

Trong trường hợp được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn để lập quy hoạch, Cơ quan lập quy hoạch lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch (bao gồm lập hợp phần quy hoạch), tư vấn đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch theo đúng quy định của pháp luật về đấu thầu để triển khai lập quy hoạch theo nhiệm vụ lập quy hoạch được Chính phủ phê duyệt; chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương liên quan điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu, dữ liệu, nghiên cứu, xây dựng quy hoạch; phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện, nguồn lực, bối cảnh phát triển, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế – xã hội của vùng, đề xuất các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu, các định hướng ưu tiên phát triển làm cơ sở xây dựng quy hoạch, xây dựng sơ đồ, bản đồ, cơ sở dữ liệu quy hoạch và đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương liên quan đề xuất tổ chức tư vấn có đủ năng lực gửi Cơ quan lập quy hoạch xem xét, quyết định lựa chọn để xây dựng nội dung hoặc hợp phần quy hoạch đã được Chính phủ phân công; cho ý kiến thẩm định bằng văn bản đối với nội dung hoặc hợp phần quy hoạch theo nhiệm vụ được Chính phủ phân công do tổ chức tư vấn lập trước khi gửi Cơ quan lập quy hoạch.

Cơ quan lập quy hoạch hoàn thiện quy hoạch và hoàn thiện đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch để lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến về quy hoạch và đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch được thực hiện theo quy định tại Điều 19 của Luật Quy hoạch, Điều 26 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 và Điều 29 Nghị định này.

Quy trình lập quy hoạch tỉnh

Theo dự thảo, việc phối hợp giữa các cơ quan tham gia lập quy hoạch tỉnh theo quy định tại điểm b, e và i khoản 4 Điều 16 Luật Quy hoạch được thực hiện như sau:

Cơ quan lập quy hoạch lựa chọn tổ chức tư vấn quy hoạch, tư vấn đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan, Ủy ban nhân dân cấp huyện điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu, dữ liệu, nghiên cứu, xây dựng quy hoạch; phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện, nguồn lực, bối cảnh phát triển, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đề xuất các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu, các định hướng ưu tiên phát triển làm cơ sở xây dựng quy hoạch, xây dựng sơ đồ, bản đồ, cơ sở dữ liệu quy hoạch và đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch.

Cơ quan lập quy hoạch hoàn thiện quy hoạch và hoàn thiện đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch để lấy ý kiến. Việc lấy ý kiến về quy hoạch và đánh giá môi trường chiến lược của quy hoạch được thực hiện theo quy định tại Điều 19 của Luật Quy hoạch, Điều 26 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 và Điều 32 Nghị định này.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, thông qua quy hoạch, trình Thủ tướng Chính phủ hồ sơ quy hoạch theo quy định tại Mục 2 Chương II Luật Quy hoạch.

Văn phòng Chính phủ gửi hồ sơ trình phê duyệt quy hoạch tỉnh tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư để chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ tiến hành rà soát tổng thể hồ sơ quy hoạch và dự thảo quyết định phê duyệt quy hoạch tỉnh và có văn bản tổng hợp ý kiến rà soát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch./.

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-tranh-lang-phi-trong-phan-bo-quan-ly-va-su-dung-dat/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:13 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2574

“Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Sáng nay (5/1), tại kỳ họp bất thường thứ 2 Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã trình bày tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nêu các căn cứ và quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia; Thực trạng phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn vừa qua; Kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém chủ yếu, nguyên nhân.

Theo đó, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển thời kỳ 2021-2030, Quy hoạch đã quán triệt và cụ thể hóa rõ hơn 5 quan điểm về tổ chức không gian phát triển: 

Một là, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh từng vùng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 

Hai là, phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trong thời kỳ đến năm 2030; đồng thời, có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp với điều kiện của nền kinh tế để bảo đảm an sinh xã hội cho các khu vực khó khăn, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển. 

Ba là, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.  

Bốn là, tổ chức không gian phát triển quốc gia, các vùng, hành lang kinh tế, hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và phát triển hài hòa khu vực đô thị, nông thôn.

Năm là, tổ chức không gian phát triển quốc gia phải gắn kết giữa khu vực đất liền với không gian biển; khai thác và sử dụng hiệu quả không gian ngầm, vùng biển, vùng trời. Chú trọng việc kết nối các hành lang kinh tế trong nước với các hành lang kinh tế của khu vực và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 

Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giai đoạn 2031 – 2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5 – 7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 27.000 – 32.000 USD. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 – 75%. Chỉ số phát triển con người ở mức rất cao, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc…

Trong đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2030 phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm.

Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng Đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD…

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình baày tờ trình tóm tắt về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: quochoi.vn

Để thực hiện đạt các mục tiêu đề ra, Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu ra 4 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch:

Một là, hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.  

Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới.

Ba là, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.

Bốn là, hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Đông – Tây, các vành đai kinh tế ven biển, các vành đai công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.  

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng đã báo cáo tóm tắt các định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành, lĩnh vực chủ yếu; Định hướng tổ chức không gian theo vùng, lãnh thổ; Định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; đồng thời nêu giải pháp, nguồn lực thực hiện. Theo đó, giải pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia đã dự báo tổng nhu cầu và cơ cấu vốn đầu tư để thực hiện quy hoạch, xây dựng hệ thống các giải pháp để huy động nguồn lực từ các khu vực kinh tế; đồng thời dự báo nhu cầu lao động cho nền kinh tế và đề xuất các giải pháp về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực.

Ngoài ra, trong Quy hoạch cũng đề ra các giải pháp về cơ chế, chính sách, phát triển khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và tăng cường hợp tác quốc tế.

Cần làm rõ sự gắn kết giữa các vùng động lực quốc gia

Trình bày báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia kèm theo Tờ trình của Chính phủ đã cơ bản đáp ứng yêu cầu về danh mục tài liệu theo quy định của Luật Quy hoạch. Tại Tờ trình số 506, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua QHTTQG tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai, tuy nhiên, ngày 06/12/2022 Chính phủ mới có Tờ trình gửi đến cơ quan của Quốc hội để thẩm tra là chưa bảo đảm theo quy định của Luật Quy hoạch.

Uỷ ban Kinh tế đánh giá cao nỗ lực, cố gắng của Chính phủ trong việc phấn đấu hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia theo yêu cầu tiến độ tại Nghị quyết số 61/2022/QH15 của Quốc hội, tuy nhiên, việc chưa bảo đảm thời gian trình Quốc hội dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm tra, do đó, đề nghị Chính phủ rút kinh nghiệm và tập trung nguồn lực để bảo chất lượng Quy hoạch tổng thể quốc gia.

Về các nội dung chủ yếu, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, báo cáo tổng hợp quy hoạch được xây dựng cơ bản đã đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 22 Luật Quy hoạch, tuy nhiên còn một số nội dung cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khoa học, hợp lý. Theo đó, nội dung Báo cáo quy hoạch cơ bản đã đánh giá được các đặc điểm điều kiện tự nhiên, các yếu tố phát triển và hiện trạng phát triển quốc gia làm cơ sở để đề xuất các quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước thời kỳ 2021 – 2030. Tuy nhiên, đề nghị cần bổ sung thêm các đánh giá về ưu điểm, lợi thế của các điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, năng lực cạnh tranh… làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch…

Bên cạnh đó đề nghị cần bổ sung các phân tích, đánh giá rõ hơn về các yếu tố thuận lợi, khó khăn về vị trí địa lý, điều kiện địa hình – địa mạo, địa chất – thổ nhưỡng tài nguyên, khoáng sản, khí hậu, rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu và đánh giá các điều kiện này tác động đến phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới. Đồng thời, làm rõ lợi thế so sánh của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới; bổ sung đánh giá sâu hơn về dân số, nguồn nhân lực, tài nguyên nhân văn và làm rõ hơn đánh giá về hạn chế, yếu kém liên quan đến tổ chức, phát triển không gian hạ tầng văn hóa, xã hội; lâm nghiệp; thủy sản; môi trường, tài nguyên.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế cho biết, quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển nêu rõ, Quy hoạch tổng thể quốc gia được lập nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021 – 2030, theo hướng phân bố không gian, phân vùng và liên kết vùng, do vậy, cần nghiên cứu làm rõ hơn, các nội dung phải định hướng trong việc sắp xếp, phân bố không gian để đạt được các mục tiêu mà Chiến lược đã đề ra. Đồng thời, đề nghị bổ sung, nhấn mạnh hơn việc giảm chồng chéo, xung đột trong sử dụng không gian giữa các ngành, các địa phương và quan điểm về phát triển kinh tế biển.

Cùng với đó, mục tiêu cho việc phát triển kết cấu hạ tầng mới tập trung chủ yếu cho hạ tầng giao thông, trong khi một số ngành khác có vai trò quan trọng nhưng còn chung chung như: hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thủy lợi…

Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ về tầm nhìn đến năm 2050, đề nghị bổ sung mục tiêu về giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện, mang đầy đủ đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa; có chỉ số phát triển con người ở mức rất cao (chỉ số HDI từ 0,8 trở lên), đời sống của người dân hạnh phúc…

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ảnh: quochoi.vn

Về định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, trừ định hướng phân vùng hạn chế phát triển; các khu vực lãnh thổ cần bảo tồn, cấm khai thác, sử dụng thì các vùng còn lại đều chưa làm rõ được tiêu chí phân vùng cũng như mục tiêu phân vùng và mối quan hệ giữa các vùng. Kết cấu hiện tại chưa làm rõ được sự gắn kết giữa các vùng động lực quốc gia với nhau, với các hành lang kinh tế và với định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành quan trọng. Nội dung phân tích của từng ngành chưa có sự gắn kết với định hướng phân vùng động lực và các hành lang kinh tế.

Do đó, đề nghị bổ sung, làm rõ các định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Đồng thời cần định hướng phát triển các khu công nghiệp sinh thái; bổ sung, làm rõ hơn các ngành công nghiệp hỗ trợ và bổ sung định hướng phát triển: Hệ thống các khu du lịch quốc gia; hạ tầng du lịch; môi trường, tài nguyên, sản phẩm và doanh nghiệp du lịch; xây dựng các hành lang di sản, các sản phẩm trong hành lang di sản.

Về định hướng sử dụng đất quốc gia, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đề nghị hoàn thiện nguyên tắc định hướng sử dụng đất như sau: “Việc xác định chỉ tiêu sử dụng đất phải phù hợp với nhu cầu sử dụng đất, tránh lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng đất” theo yêu cầu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Về định hướng phân vùng và liên kết vùng, nội dung Báo cáo chưa đề cập tới phương án phân vùng hiện nay có những khó khăn gì do đó cần làm rõ để có đủ cơ sở đánh giá tính khả thi, hiệu quả của phương án phát triển của các ngành và khả năng liên kết vùng.

Bên cạnh đó, đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc cần bổ sung định hướng phát triển công nghiệp điện tử, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đối với Vùng động lực phía Bắc và Vùng động lực phía Nam, cần bổ sung các định hướng về phát triển giáo dục, đào tạo và công nghiệp văn hóa.

Đối với danh mục dự án quan trọng quốc gia cần làm rõ cơ sở, nguyên tắc, phương án xây dựng danh mục dự án, xác định rõ thuật ngữ “dự án quan trọng của quốc gia” và “dự án quan trọng quốc gia”; cần làm rõ được tầm nhìn, quy mô chiến lược, liên kết vùng, phát triển hành lang kinh tế, vùng động lực quốc gia và phù hợp với khả năng bố trí nguồn lực đầu tư công, nguồn lực xã hội và tránh dàn trải, thiếu hiệu quả.

Về giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế đề nghị tiếp tục quán triệt sâu sắc và nghiên cứu cụ thể hóa Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đối với các nội dung này. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, cân đối các giải pháp, nguồn lực thực hiện để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của đất nước.

Ngoài ra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện các sơ đồ, bản đồ thể hiện một cách thống nhất giữa nghị quyết, báo cáo quy hoạch và sơ đồ, bản đồ đối với phạm vi quy hoạch, tỷ lệ, sự tương thích… các nội dung quy hoạch. Đồng thời, đề nghị cần khẩn trương cập nhật, bổ sung, hoàn thiện Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch theo quy định.

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia: Thể chế mà lạc hậu, chậm trễ thì sẽ kìm hãm phát triển https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-the-che-ma-lac-hau-cham-tre-thi-se-kim-ham-phat-trien/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:08 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2713

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đề cập tới vấn đề này khi thảo luận ở tổ về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Sáng 6/1, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 2, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nêu ý kiến tại phiên thảo luận, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, đây là vấn đề khó, với xuất phát điểm ban đầu là Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua vào năm 2019.

Chủ tịch nước đánh giá, Chính phủ đã chuẩn bị tờ trình đầy đủ, nhiều ý tưởng và thể hiện được tinh thần của luật quy hoạch, đồng thời chỉ rõ tầm nhìn của quy hoạch 30 năm là rất dài, trong một thế giới luôn biến đổi thì cần lưu ý đến yếu tố khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong quá trình phát triển. Đây là vấn đề rất lớn, yếu tố quyết định cho sự phát triển cho nên phải có tầm nhìn trong định hướng của quốc gia, nếu chậm, không cập nhật thì sẽ lạc hậu.

Chủ tịch nước cũng cho rằng, đi liền với khoa học công nghệ thì phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để thực hiện được quy hoạch. Chúng ta phải thay đổi nguồn nhân lực một cách căn bản, chất lượng thì mới thực hiện được các chiến lược, những kịch bản tăng trưởng.

Ngoài ra, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu, do đó khi đặt vấn đề về quy hoạch tại những trục chính, những đô thị, khu vực đông dân cư phải đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, giảm thiểu thiệt hại thiên tai, phát triển bền vững.

Chủ tịch nước cho rằng, cần phải chọn phương án tăng trưởng cao (quy hoạch đưa ra 2 kịch bản tăng trưởng) vì chỉ có tăng trưởng nhanh chóng mới có thể mở rộng quy mô nền kinh tế, đạt mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước có thu nhập cao; củng cố thế và lực của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, dự thảo chưa rõ chi phí như thế nào để thực hiện các kịch bản, phát triển bền vững.

Cũng theo Chủ tịch nước, thể chế phải phù hợp để đất nước hội nhập quốc tế. Thể chế mà lạc hậu, chậm trễ thì sẽ kìm hãm phát triển. Đảng ta coi đột phá trong thể chế rất quan trọng trong quá trình tổ chức, thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước.

Chia sẻ về nội dung này, đại biểu Phạm Văn Hoà (đoàn Đồng Tháp) cho biết, qua tiếp cận hồ sơ, tờ trình quy hoạch tổng thể quốc gia, có thể thấy Chính phủ đã rất nỗ lực, công phu trong quá trình chuẩn bị. Quy hoạch tổng thể quốc gia khi được ban hành sẽ đáp ứng yêu cầu là cơ sở để lập quy hoạch không gian biển quốc gia, các quy hoạch ngành quốc gia, vùng, tỉnh. Đồng thời, góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém lâu nay trong công tác quy hoạch, đặc biệt là tình trạng tổ chức không gian phát triển còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa tập trung nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực và bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia.

“Việc sớm ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ là cơ sở quan trọng để lập các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia, là căn cứ để xây dựng, triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư công và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước”, ông Hòa chia sẻ.

Đừng “vẽ” như New York, Paris rồi không làm được

Đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TP.Hồ Chí Minh) thì cho rằng, điều quan trọng nhất nhận được sự quan tâm của các đại biểu và nhân dân hiện nay là nguồn lực để đưa những ý tưởng trong quy hoạch đó trở thành hiện thực và được áp dụng vào cuộc sống.

Đề cập các hành lang kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, chuyên gia kinh tế Trần Hoàng Ngân cho rằng, cái nào cũng quan trọng nhưng cần thứ tự ưu tiên theo giai đoạn. Ngoài ra, quy hoạch nào chưa làm ngay, chưa đền bù cho người dân phải công bố rõ để cho người dân được quyền xây dựng, sửa chữa nhà cửa…

Đừng “vẽ” như New York, Paris rồi không làm được
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn TP.HCM). Ảnh: quochoi.vn

Nhấn mạnh quy hoạch phải khả thi, Đại biểu Trần Hoàn Ngân lưu ý làm rõ nguồn lực để thực hiện quy hoạch, đừng “vẽ” như New York, Paris rồi không làm được.

“Khâu thể chế rất quan trọng, đầu tư công hiện nay có hạn mà đầu tư còn dàn trải, không nuôi dưỡng được nguồn thu. Bây giờ phải chuyển hướng sang các vùng động lực tăng trưởng; đẩy mạnh hợp tác công tư. Nhìn lại sân cỏ Mỹ Đình, rất đau xót. Nếu có sự hợp tác, liên doanh, giao khu vực tư quản lý khai thác thì có lẽ đã khác”, ông Ngân nói.

Trong khi đó Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (đoàn Cần Thơ) băn khoăn về tính khả thi mục tiêu thu nhập bình quân đầu người đạt 32.000 USD vào năm 2025.

“Khi đặt ra được mục tiêu khả thi thì mới tính toán được các bước đi, giải pháp tiếp theo, còn mục tiêu không khả thi thì các bước đi sẽ gặp khó khăn. Tôi rất băn khoăn, mục tiêu thu nhập bình quân đầu người tới 2050 tối đa 32.000 USD là mục tiêu khá khó khăn cho năm 2050”, ông Hùng nói.

Cũng theo Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng, cơ sở dữ liệu lập quy hoạch, hiện còn dở dang, như: Cơ sở dữ liệu đất đai chưa đầy đủ, vì vậy chưa thể định hình đang có gì, sẽ làm gì; hay cơ sở dữ liệu về con người, xã hội vẫn đang phân tán, chưa thống nhất… Khi cơ sở dữ liệu thiếu thì căn cứ lập quy hoạch chưa đảm bảo tính khả thi cao.

“Hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia đang đưa ra các vùng kinh té, hành lang kinh tế, vùng động lực… nhưng lại có chồng lấn, chồng chéo trong đầu tư nguồn lực. Ai sẽ là người tổng chỉ huy, xử lý những mâu thuẫn, chồng chéo này? Cần có giải trình, đánh giá rõ hơn để các vùng không cạnh tranh mà hỗ trợ nhau phát triển; bổ sung các cơ chế, chính sách cho thấy sự kết nối, liên kết giữa các vùng kinh tế, vùng động lực phát triển hay hành lang kinh tế”, ông Hùng nêu rõ.

Đừng “vẽ” như New York, Paris rồi không làm được
Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (đoàn Cần Thơ). Ảnh: quochoi.vn

Nêu quan điểm về tầm quan trọng và tổng quan về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Đại biểu Nguyễn Chu Hồi (đoàn TP. Hải Phòng) cho rằng, Quy hoạch tổng thể quốc gia phải là bức tranh phát triển của đất nước và thể chế hóa được Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng như khát vọng của Việt Nam đối với phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2030-2045 trở thành hiện thực.

Việc Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần hướng tới phát triển hạ tầng giao thông ở khu vực miền núi, vùng khó khăn. Nếu chú trọng phát triển giao thông ở khu vực này thì sẽ kéo theo nền kinh tế-xã hội cũng phát triển theo.

Bên cạnh đó, cần chú trọng tới phát triển hạ tầng số với chức năng liên kết vùng. Ngoài ra, để thích ứng với biến đổi khí hậu cần có hạ tầng tự nhiên để giảm thiểu thiên tai, bão lũ, nước biển dâng…

“Khi thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia phải theo lộ trình. Ngoài ngân sách Nhà nước, chúng ta cần huy động nguồn lực từ xã hội và Nhân dân cũng như sự hỗ trợ  cũng như sử dụng tốt các khoản vay của các tổ chức quốc tế. Việc tổ chức thực hiện cần có sự rà soát các luật có liên quan đến Luật Quy hoạch để làm sao hệ thống pháp luật phải đồng bộ, không chồng chéo”, ông Hồi nêu quan điểm.

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia: Cần dự báo ở mức độ chính xác cao nhất để không gặp phải những hệ lụy về sau https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-can-du-bao-o-muc-do-chinh-xac-cao-nhat-de-khong-gap-phai-nhung-he-luy-ve-sau/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:05 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2782

“Đây là bài học kinh nghiệm quý giá và là vấn đề nhức nhối mà chúng ta đã và đang gặp phải hiện nay tại các khu đô thị lớn trên cả nước”, Đại biểu Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh.

Sáng nay (7/1/2023), Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.

Đại biểu Trần Quốc Tuấn (đoàn Trà Vinh) đánh giá rất cao sự cố gắng, nỗ lực của cơ quan soạn thảo trong việc chuẩn bị hồ sơ, tài liệu liên quan cũng như nội dung của dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia trình Quốc hội lần này, đồng thời kiến nghị cần quan tâm thêm 4 nội dung sau đây:

Một là, không để một số nội dung quy hoạch xa rời thực tiễn. Đề nghị cần nghiên cứu, lập quy hoạch bổ sung thêm các nội dung quan trọng, những định hướng cơ bản đã được nêu trong các nghị quyết của Bộ Chính trị trong thời gian gần đây, đặc biệt là các nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của 6 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước và các nghị quyết về phát triển các thành phố lớn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để nội dung quy hoạch này phù hợp với quan điểm, mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhưng cũng vừa đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của đất nước và đặc biệt là không xa rời thực tiễn.

Hai là, cần dự báo ở mức độ chính xác cao nhất để không gặp phải những hệ lụy về sau. Khi dự báo tương đối chính xác, chúng ta sẽ có được những khung số liệu, nền tảng phục vụ cho việc xây dựng các kịch bản tăng trưởng phù hợp tương ứng với các định hướng phát triển đi kèm với các nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách được đề xuất mang tính khả thi cao, điển hình như trong quy hoạch định hướng xây dựng và phát triển các vùng kinh tế động lực.

Nếu chúng ta không dự báo tốt về mức độ di dân đến các vùng kinh tế này hoặc không có chính sách phát triển đồng bộ các vùng kinh tế, vùng đô thị vệ tinh, chắc chắn chúng ta sẽ gặp phải những khó khăn và đối mặt với những nguy cơ về mật độ dân cư đông cục bộ, kéo theo hệ lụy gây tắc nghẽn giao thông hay ngập úng đô thị trong tương lai là điều không thể tránh khỏi.

“Đây là bài học kinh nghiệm quý giá và là vấn đề nhức nhối mà chúng ta đã và đang gặp phải hiện nay tại các khu đô thị lớn trên cả nước”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Ba là, cần đề xuất chính sách phát triển liên kết vùng một cách thực chất. Trong phần nội dung đánh giá chung về hiện trạng phát triển và tổ chức không gian phát triển đất nước giai đoạn vừa qua có nêu 8 nhóm hạn chế, trong đó có nhóm hạn chế thứ nhất đó là không gian phát triển đô thị bị chia cắt theo địa giới hành chính, liên kết vùng hạn chế, một số địa phương phát triển không dựa vào lợi thế của mình.

Nguyên nhân dẫn đến hạn chế này là do thiếu cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế liên vùng. Còn tình trạng cục bộ địa phương theo đơn vị hành chính, các yếu tố thể chế liên quan như tổ chức điều phối vùng chưa có thẩm quyền đủ mạnh…

“Tôi cho rằng liên kết vùng là một trong những định hướng quan trọng được nhấn mạnh tại các nghị quyết của Bộ Chính trị trong thời gian gần đây. Đồng thời, chúng ta cũng đã xác định rõ những hạn chế, yếu kém của liên kết vùng trong thời gian vừa qua. Do vậy, tôi kiến nghị trong quy hoạch này cần phải đề cập sâu hơn về việc xây dựng các cơ chế điều phối, chính sách phát triển liên vùng để làm căn cứ cho các quy hoạch khác, đảm bảo phát triển mang tính bền vững và bao trùm”, ông Tuấn phân tích.

Bốn là, cần định hướng phát triển các khu kinh tế ven biển. Theo tôi, phát triển các khu kinh tế ven biển là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Do vậy, tôi hoàn toàn thống nhất với nội dung thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội là đề nghị làm rõ định hướng phát triển trong giai đoạn 2021 – 2030 đối với 8 khu kinh tế ven biển đã được Chính phủ ưu tiên đầu tư trong giai đoạn 2016 – 2020, bao gồm: Khu kinh tế Chu Lai, tỉnh Quảng Nam; Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi; khu kinh tế Đình Vũ, Cát Hải, TP. Hải Phòng; khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa; khu kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh; khu kinh tế Nam Phú Yên, tỉnh Phú Yên; khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh và khu kinh tế Định An, tỉnh Trà Vinh.

“Vì trong nội dung nhóm hạn chế thứ 5 của quy hoạch này có nêu “tính đến thời điểm hiện nay, việc triển khai xây dựng các khu kinh tế này rất chậm, đầu tư kết cấu hạ tầng còn hạn chế, thu hút đầu tư và phát triển các khu kinh tế này chưa đạt yêu cầu. Đặc biệt là cơ chế, chính sách đã ban hành cho các khu kinh tế chưa vượt trội so với những nơi khác, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao”. Phần hạn chế đã nêu như thế nhưng nội dung này chưa thấy đề cập trong phần định hướng phát triển, do vậy tôi đề nghị cần phải nêu rõ nội dung, định hướng phát triển đối với các khu kinh tế ven biển giai đoạn 2021 – 2030. Đồng thời, cũng cần bổ sung nội dung đề xuất cơ chế, chính sách cho phát triển các khu kinh tế ven biển phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn, góp phần phát triển kinh tế biển Việt Nam bền vững hơn”, ông Tuấn nêu ý kiến.

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Cần dự báo ở mức độ chính xác cao nhất để không gặp phải những hệ lụy về sau
Các đại biểu thảo luận tại nghị trường về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. (Ảnh: quochoi.vn)

Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp): “Về định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, xu thế phát triển. Tờ trình của Chính phủ đã có đánh giá rất cụ thể về xu hướng phát triển có tác động trực tiếp, gián tiếp đến các lĩnh vực trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ các thách thức của quốc tế và trong nước ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng của đất nước như xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ, nhất là hàng hóa nông sản chế biến sau thu hoạch, đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, an sinh xã hội, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng, giảm nghèo kém bền vững, nguy cơ tái nghèo khá cao. Cơ hội phát triển của đất nước trên cơ sở sở hội nhập sâu rộng quốc tế, liên kết bền vững với các đối tác nước ngoài ra sao.

Về kịch bản phát triển kinh tế, tôi nhất trí với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đến năm 2030 là 6,3% và đến năm 2050 là 6,49%, tuy nhiên Chính phủ cần tính con số chẵn cho cụ thể, như 6,49% thì nên tính là 6,5% cho dễ. Tôi chọn kịch bản này. Thế giới chỉ tăng trưởng 2% tới 3% là lý tưởng rồi, đất nước ta tăng trưởng ở mức độ đó là hợp lý.

Báo cáo Quy hoạch đã định hướng phân vùng trọng điểm, đầu tư, khuyến khích phát triển vùng hạn chế, kinh tế cần bảo tồn, cần cấm khai thác và sử dụng là rất cần thiết. Trên cơ sở quy hoạch ngành, địa phương thực hiện đảm bảo quy hoạch cấp quốc gia được chấp hành tốt, cũng dễ thực hiện, nhất là việc bố trí các ngành xây dựng tập trung vùng trọng điểm, động lực phát triển khu kinh tế, khu nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, cần có những giải pháp liên kết vùng để hạn chế bất cập hiện nay, trong đó có ngành công nghiệp, cần lựa chọn ngành nghề ưu tiên mang tính chiến lược, thân thiện môi trường, lao động nhiều, công nghiệp hỗ trợ, sử dụng đất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp. Quan tâm đến hệ thống du lịch cấp quốc gia, vùng, hạ tầng cho du lịch, đảm bảo môi trường sinh thái, tài nguyên được đảm bảo và sản phẩm du lịch có chất lượng cao cho từng vùng, địa phương”.

]]>
Quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-su-dung-dat-quoc-gia-phai-duoc-thuc-hien-tren-co-so-quy-hoach-tong-the-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:04 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2791

“Theo tôi, cần có sự linh hoạt trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế, nhất là khu công nghiệp, khu kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đô thị”, Đại biểu Mai Văn Hải đề nghị.

Trong phiên thảo luận Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 tại Quốc hội ngày 7/1/2023, Đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải – Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa nhận định, quy hoạch tổng thể quốc gia là một nhiệm vụ rất mới, rất khó và rất quan trọng, để chúng ta bố trí, phân bổ không gian phát triển kinh tế – xã hội, phát triển vùng, liên vùng.

Đại biểu Mai Văn Hải đánh giá rất cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ, ngành có liên quan trong vấn đề xây dựng quy hoạch. Quy hoạch được chuẩn bị rất công phu và đã hoàn thiện theo tinh thần Kết luận số 45 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến 2050; đồng thời đề xuất một số nội dung:

Vấn đề thứ nhất, hiện đã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất quốc gia, đã được Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp thứ 2. Lần này, định hướng phần sử dụng đất quốc gia trong Quy hoạch tổng thể quốc gia, có những phần cần phải nghiên cứu thêm trong vấn đề định hướng sử dụng đất cho 8 lĩnh vực lĩnh vực nông nghiệp, lâmnghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị, cơ sở hạ tầng, đất quốc phòng, an ninh. Tất cả những định hướng này vẫn dựa trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất quốc gia, mà lẽ ra quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia.

“Theo tôi, những định hướng về sử dụng đất quốc gia thì không nên quá phụ thuộc vào quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, như thế thì mới đáp ứng được sự phân bổ các loại đất cho các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đặc biệt là đất dành cho các khu công nghiệp, khu kinh tế là đất dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đô thị và thông qua việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất. Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất quốc gia vừa rồi thì tôi thấy nhiều địa phương phản ánh việc phân bổ để phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là đất cho khu công nghiệp, đất cho giao thông, một số cơ sở hạ tầng khác chưa đáp ứng yêu cầu.

Vì vậy, tôi đề nghị cần phải có định hướng mang tính chiến lược hơn. Tôi rất đồng tình việc chúng ta định hướng giữ ổn định khoảng 3,5 triệu héc-ta đất lúa, giữ được rừng tự nhiên, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, còn lại một số loại đất khác theo tôi cần có sự linh hoạt hơn trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế, nhất là phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế, rồi đất dành cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hay là đất đô thị. Tôi đề xuất cần bổ sung thêm việc định hướng sử dụng đất đối với Khu công nghệ cao, tôi cho rằng đây là một nội dung rất quan trọng mà trong dự thảo quy hoạch chúng ta chưa đề cập đến”, ông Hải nêu.

Quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia
Theo Đại biểu Mai Văn Hải, cần có sự linh hoạt hơn trong việc cân đối để tạo được nhiều hơn quỹ đất cho phát triển kinh tế. Ảnh minh họa: VGP

Vấn đề thứ hai, Đại biểu Mai Văn Hải  đề nghị Quy hoạch tổng thể quốc gia cần thể hiện rõ hơn các chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển đất nước, phát triển vùng, các ngành và các địa phương, trong đó có Nghị quyết 58 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ở một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, về định hướng phát triển vùng động lực phía Bắc. Bên cạnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh thì đề xuất thêm Thanh Hóa, đã được Nghị quyết 58 của Bộ Chính trị xác định rất rõ là “xây dựng Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng mới cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc”. Vì vậy, việc cụ thể hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa, việc bổ sung quy hoạch Thanh Hóa vào quy hoạch phát triển vùng kinh tế động lực cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh trở thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc là một việc rất cần thiết.

Thứ hai, về phát triển các hành lang kinh tế. Thanh Hóa là một tỉnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có vai trò kết nối vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Tây Bắc với Bắc Trung Bộ. Tôi đề nghị trong hành lang kinh tế Đông Tây ở phía Bắc nên có thêm một hành lang đó là Điện Biên – Sơn La – Hòa Bình – Thanh Hóa, bởi vì Thanh Hóa có 11 huyện miền núi phía Tây lâu nay nhiều chính sách đang được thực hiện như các tỉnh ở phía Tây Bắc; 4 tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa hiện tại đang được kết nối bởi Quốc lộ 6, Quốc lộ 15 từ Hòa Bình đi Thanh Hóa.

Nếu thiết lập hành lang này sẽ có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh Tây Bắc và Thanh Hóa, bởi vì Thanh Hóa có lợi thế về cảng hàng không Thọ Xuân, khu kinh tế Nghi Sơn, cảng nước sâu Nghi Sơn, do đó hàng hóa, phương tiện của Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình đến Thanh Hóa sẽ rất thuận lợi.

Thứ ba, về định hướng ưu tiên phát triển khu vực dịch vụ tại các địa bàn. Tôi đề nghị quy hoạch cần xác định rõ hơn, cụ thể hơn việc xây dựng trung tâm logistics ở khu vực Bắc Trung Bộ. Trong dự thảo quy hoạch mới xác định được các trung tâm logistics tại Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu.

“Theo tinh thần Nghị quyết số 58 của Bộ Chính trị đã xác định rất rõ xây dựng trung tâm logistics cấp vùng hạng 1 tại khu vực kinh tế Nghi Sơn. Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung nội dung này vào trong quy hoạch”, ông Hải nêu.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, các ý kiến của các đại biểu Quốc hội đều rất tâm huyết, trách nhiệm, sâu sắc, có giá trị đã gợi mởi nhiều vấn về để các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện Quy hoạch. Đồng thời cho biết sẽ nghiên cứu tiếp thu xác đáng các ý kiến của các đại biểu Quốc hội.

Về sự cần thiết và tính cấp bách của xây dựng Quy hoạch, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu rõ Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để triển khai các quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia và các quy hoạch khác, cũng như để thu hút đầu tư đầu tư cho các các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.

Về mức độ chi tiết, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã đảm bảo tuân thủ là một bước cụ thể hóa các Nghị quyết của Đại hội thứ XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Quy hoạch này cũng là quy hoạch tuân theo Điều 22 của Luật Quy hoạch xác định là quy hoạch cấp quốc gia mang tính chiến lược theo hướng phân vùng và liên kết vùng của lãnh thổ; tổ chức không gian phát triển của đất nước.

Các nội dung chi tiết về phân chia tiểu vùng trong các vùng, liên kết nội vùng, định hướng phát triển cụ thể của từng ngành, từng tỉnh sẽ được quy hoạch cụ thể hóa ở các quy hoạch cấp thấp hơn để tránh sự trùng lắp và chồng chéo về nội dung của các quy hoạch.

Về sự về các quan điểm phát triển và những trọng tâm, trọng điểm, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết,  quan điểm mới và quan trọng của quy hoạch lần này là phải hướng đến phát triển có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra được động lực phát triển mới, đồng thời phải đảm bảo các vấn đề về an sinh xã hội và môi trường. Theo đó, phân chia ra 2 giai đoạn:

Giai đoạn trước 2030 phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi để hình thành các vùng động lực, các hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo quan tâm các vấn đề về an sinh xã hội, môi trường, các đối tượng chính sách, những người nghèo, dân tộc thiểu số miền núi nhất là về y tế, giáo dục và văn hóa.

Giai đoạn sau năm 2030 sẽ hướng đến phát triển cân bằng, hài hòa và bền vững giữa các vùng miền và địa phương. 

Về hình thành và phát triển các vùng động lực, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay để lựa chọn một số địa bàn có vị trí, điều kiện thuận lợi nhất có cảng biển, cảng hàng không quốc tế, khu kinh tế ven biển, tiềm lực về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao được kết nối với các cửa khẩu quốc tế… sẽ xác định là 4 vùng động lực, sau đó có 4 cực tăng trưởng.

]]>
ĐBQH Trần Thị Hồng Thanh kiến nghị bốn vấn đề quan trọng khi thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia https://trithucdoanhnhan.net/dbqh-tran-thi-hong-thanh-kien-nghi-bon-van-de-quan-trong-khi-thuc-hien-quy-hoach-tong-the-quoc-gia/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:04 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2794

“Cần cụ thể hóa hơn nữa các mục tiêu về phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ…”, bà Thanh nhấn mạnh.

Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình) đánh giá cao tinh thần quyết tâm, khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm bù đắp khoảng trống quy hoạch tổng thể quốc gia dài hạn, cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm phát triển của Đại hội Đảng XII, các nghị quyết chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

“Điều tôi ấn tượng hơn cả, đó là sự bài bản, cầu thị của việc xây dựng quy hoạch thông qua việc trao đổi, tiếp thu ý kiến nhiều lần của Hội đồng thẩm định, các bộ, ngành trung ương và địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, học tập kinh nghiệm quốc tế. Do vậy, quy hoạch trình Quốc hội đã thể hiện đầy đủ nội dung theo yêu cầu của Luật Quy hoạch một cách có hệ thống, trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển quốc gia, tuân thủ các định hướng chiến lược phát triển có liên quan”, bà Thanh bày tỏ.

Để quy hoạch đảm bảo triển khai thực hiện thống nhất, phù hợp hơn nữa với hiện trạng và triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam, Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh góp ý bốn vấn đề:

Một là, quy hoạch cần chỉ rõ, nhấn mạnh, cụ thể hóa hơn nữa các mục tiêu về phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khoa học, công nghệ, vừa là để ghi nhận những kết quả đã đạt được, vừa thể hiện quyết tâm phấn đấu rõ ràng hơn để tận dụng tốt xu hướng nguồn lực trong những lĩnh vực tiềm năng này.

“Tôi dẫn chứng một vài con số để thấy Việt Nam đã có vị thế nhất định trên trường quốc tế và những kết quả ban đầu khá ấn tượng của nước ta về phát triển kinh tế số, đổi mới, sáng tạo và nỗ lực giảm phát thải ròng trong giai đoạn 2020-2022. Theo một nghiên cứu quốc tế gần đây, kinh tế Internet của Việt Nam năm 2022 đứng thứ ba ASEAN, sau Indonesia và Thái Lan, với quy mô là 23 tỷ USD, khoảng 6,3% GDP, tăng 28% so với năm 2021. Việt Nam tăng 7 bậc về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo toàn cầu, đứng thứ 55/181 thế giới và thứ 6/10 ASEAN. Số lượng người mua sắm trực tuyến đạt 60 triệu, đứng thứ 2 ASEAN về tỷ lệ so với dân số sau Singapore. Việt Nam cũng xếp hạng 70 trên thế giới và thứ 14 trong số 50 quốc gia châu Á về công nghệ tài chính.

Theo báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2022 của Việt Nam thì mức đóng góp giảm phát thải không điều kiện đến năm 2030 tăng từ 9% năm 2020 lên 15,8%, giảm thêm 62,4 triệu tấn CO2, đóng góp có điều kiện tăng từ 27% lên 43,5%, giảm thêm 150 triệu tấn CO2.

Với những quả đó, trong quy hoạch chúng ta nên xem xét, nhấn mạnh tầm nhìn đến năm 2050, đó là Việt Nam thuộc nhóm các nước phát triển kinh tế số và công nghệ tài chính hàng đầu khu vực châu Á cũng là phù hợp với nghị quyết Đại hội XIII về kinh tế số, kinh tế tuần hoàn”, bà Thanh phân tích.

Trên cơ sở đó, Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh nêu mục tiêu cụ thể cần xem xét điều chỉnh:

Thứ nhất, mục tiêu phấn đấu từ 3 đến 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế, nên điều chỉnh thành phấn đấu có 5 đến 10 đô thị xanh thông minh đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Hiện nay, chúng ta đã, đang xây dựng và triển khai đề án đô thị thông minh. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn về thành phố xanh, thông minh sẽ cần cập nhật, điều chỉnh bổ sung phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế, tập trung vào chất lượng tiêu chuẩn sống hơn là quy mô thương hiệu, đồng thời việc phát triển kết hợp giữa xanh và thông minh thể hiện mức độ cao hơn, phù hợp hơn với chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, theo Quyết định số 1658 ngày mùng 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tác động tiêu cực đến môi trường, giảm phát thải nhà kính và nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.

ĐBQH Trần Thị Hồng Thanh kiến nghị bốn vấn đề quan trọng khi thực hiện Quy hoạch tổng thể quốc gia
Cần sớm nghiên cứu hoàn thiện bộ chỉ tiêu đánh giá tính tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế theo tiêu chuẩn quốc tế. Ảnh minh họa: NQ

Thứ hai, xem xét bổ sung chỉ tiêu về doanh nghiệp trong phát triển kinh tế số đó là số lượng doanh nghiệp chuyển đổi số thành công, đổi mới công nghệ tăng trung bình 15 đến 20% trong giai đoạn 2021-2030 và tăng 5 đến 10% trên năm đến năm 2050 nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp vốn đang tiến triển chậm, chưa đạt kỳ vọng.

Việc gia tăng số lượng doanh nghiệp chuyển đổi số, đổi mới công nghệ thành công sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ nền tảng số của Chính phủ, tổ chức và người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và Chính phủ số.

Về tăng tính độc lập, tự lực, tự cường, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế. Đây là mục tiêu phù hợp với bối cảnh mới hiện nay và sắp tới, nhất là sau dịch bệnh, xung đột vũ trang, chúng ta đã thấy vai trò quan trọng của những năng lực này.

“Việt Nam có thể đưa ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2050 đó là năng lực tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam đạt trình độ tương đương các nước phát triển trong khu vực ASEAN hoặc châu Á, bao gồm cả đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an ninh chuỗi cung ứng. Cùng với việc đưa ra các mục tiêu dài hạn, Chính phủ và các cơ quan điều hành, các tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế nên sớm nghiên cứu, hoàn thiện bộ chỉ tiêu đánh giá tính tự chủ, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế theo tiêu chuẩn quốc tế”, bà Thanh nêu đề xuất.

Thứ ba, về phát triển vùng và liên kết vùng, nên chú trọng đảm bảo tính phù hợp, nhất quán giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch vùng, quy hoạch địa phương, cực tăng trưởng về quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu, định hướng phát triển, bổ sung thêm một số chỉ tiêu về phát triển xã hội, môi trường của từng vùng. Hiện trong dự thảo chỉ có chỉ tiêu về kinh tế phù hợp với mục tiêu chung của quốc gia và quy hoạch vùng.

Ngoài ra, nên bổ sung mục tiêu liên kết phát triển vùng toàn diện, hiệu quả, là một trong những mục tiêu quan trọng trong thời kỳ quy hoạch 2021-2030. Theo đó, đưa ra các nhiệm vụ và giải pháp về liên kết trong nội vùng và giữa các vùng không chỉ liên kết về giao thông mà còn liên kết về phát triển công nghiệp chế tạo, dịch vụ logistics, du lịch, phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số theo hướng phát huy tối đa lợi thế vượt trội, đặc trưng của từng vùng, miền.

Thứ tư, về giải pháp nguồn lực thực hiện quy hoạch, dự thảo đang chưa phân tách rõ các nguồn lực cần để thực hiện quy hoạch và các giải pháp để khai thác hiệu quả tối ưu các nguồn lực; đồng thời các giải pháp cũng chỉ mới nêu ở mức tổng quan, sơ bộ, chưa chi tiết, cụ thể.

“Bên cạnh nguồn lực về cơ chế, chính sách khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực như dự thảo thì cần nghiên cứu, xem xét bổ sung các nguồn lực để thực hiện quy hoạch như hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng số, hạ tầng kinh tế tuần hoàn, hạ tầng bảo vệ môi trường, hạ tầng an ninh mạng.

Đồng thời, giao Chính phủ xây dựng hệ thống giải pháp chi tiết hơn, đầy đủ, rõ ràng hơn đối với từng nguồn lực có gắn với việc phát triển các thị trường, cho các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh như thị trường khoa học, công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường tài chính, thông tin dữ liệu số, góp phần đảm bảo tính khả thi trong triển khai các quy hoạch”, đại biểu Thanh đề nghị.

Báo cáo tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết: “Về các vùng động lực quốc gia, trong thời kỳ trước chúng ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm với một quy mô khá lớn, gồm 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chiếm tới 27,5% diện tích của cả nước, 53,1% dân số cả nước. Các vùng kinh tế trọng điểm này chưa thực sự trở thành các vùng động lực, nhiều địa phương thuộc các vùng kinh tế trọng điểm này vẫn đang còn có trình độ phát triển dưới hoặc là tương đương với mức trung bình của cả nước.

Trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay thì việc lựa chọn một số địa bàn có vị trí, điều kiện thuận lợi nhất, có cảng biển, cảng hàng không quốc tế, khu kinh tế ven biển, tiềm lực về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao được kết nối với các cửa khẩu quốc tế thì sẽ xác định ra 4 vùng động lực, sau đó có 4 cực tăng trưởng như trong báo cáo đã đề ra, ưu tiên cả về thể chế và nguồn lực để phát triển nhanh hơn, đóng góp lớn hơn, tạo sự lan tỏa nhiều hơn cho cả vùng xung quanh và cho cả nước. Còn các vùng khác thì  đã đưa ra định hướng là sẽ dần hình thành các vùng động lực mới ở Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc. Trong quá trình phát triển, nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ điều chỉnh và bổ sung các vùng động lực mới để phát huy được tối đa tất cả các lợi thế, tiềm năng, thế mạnh của các vùng, các địa phương chứ không phải chỉ bó hẹp như thế. Nhưng hiện nay với điều kiện cụ thể để tập trung trọng tâm, trọng điểm thì chúng tôi chỉ lựa chọn 4 vùng này.

Việc hình thành các hành lang kinh tế là nhằm tăng cường tính liên kết nội vùng, liên vùng và cả nước, các hành lang giao thông này đã có và sẽ trở thành các hành lang trọng điểm kinh tế. Các hành lang kinh tế được lựa chọn gắn với cả các tuyến giao thông đường bộ, cao tốc, đường sắt, kết nối các đô thị, các trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng, các cảng biển, các cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế từ đầu mối giao thương lớn và ưu tiên phát triển các hành lang kinh tế với vùng động lực của quốc gia, các hành lang kinh tế kết nối với hành lang kinh tế của khu vực và quốc tế, có sự tính toán và gắn kết với các hành lang của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, hôm nay có nhiều đại biểu đề nghị bổ sung thêm một số tuyến hành lang, chúng tôi xin phép được tiếp tục nghiên cứu, nếu thấy phù hợp thì sẽ báo cáo để bổ sung thêm một số hành lang khác”.

]]>
Bất động sản 24h: Bất động sản nghỉ dưỡng chờ “nắng mai” https://trithucdoanhnhan.net/bat-dong-san-24h-bat-dong-san-nghi-duong-cho-nang-mai/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:02 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2839

Bất động sản nghỉ dưỡng chờ “nắng mai”; Căn hộ dịch vụ trở lại?… là những thông tin bất động sản đáng chú ý trong 24h qua.

Bất động sản nghỉ dưỡng chờ “nắng mai”

Thông tin từ Tổng cục Du lịch cho biết, tính đến tháng 11/2022, Việt Nam mới chào đón 2,95 triệu lượt khách quốc tế. Bù lại, hoạt động du lịch nội địa ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng với 96,3 triệu lượt, vượt mức 85 triệu lượt của cả năm 2019 – thời điểm trước khi đại dịch Covid-19 xuất hiện.

Bất động sản nghỉ dưỡng chờ “nắng mai”

Còn theo Savills, cùng thời điểm, thị trường khách sạn Việt Nam ghi nhận công suất phòng chỉ đạt hơn 60% so với cùng kỳ 2019. Ông Mauro Gasparotti, Giám đốc Savills Hotels Châu Á – Thái Bình Dương cho biết, mức độ khôi phục hoạt động kinh doanh của các khu nghỉ dưỡng tại Việt Nam không đồng đều. Các dự án trước đây vốn phụ thuộc nhiều vào nguồn khách quốc tế hiện gặp nhiều khó khăn để quay lại mức trước dịch. Các điểm đến như Nha Trang, Cam Ranh, Đà Nẵng… mới đạt 50% mức công suất của năm 2019. Các khách sạn tại Hà Nội và TP.HCM ghi nhận mức độ hồi phục tốt hơn nhờ nguồn khách công vụ, khách lưu trú dài hạn cũng như đoàn khách cao cấp (MICE).

Xem thông tin chi tiết tại đây

Tâm lý nhà đầu tư bất động sản suy giảm nhưng tin vào triển vọng dài hạn

Theo báo cáo tâm lý người tiêu dùng bất động sản (Consumer Sentiment Study – CSS) đầu năm 2023 cho thấy, chỉ số tâm lý thị trường bất động sản Việt Nam đầu năm 2023 là 36 điểm, giảm khá nhiều so với mức 47 và 40 điểm của nửa đầu và nửa cuối năm 2022. Trong đó, mức độ lạc quan của người mua/bán bất động sản sụt giảm mạnh nhất đối với lãi suất vay mua bất động sản (giảm 15 điểm).

Tâm lý nhà đầu tư bất động sản suy giảm nhưng tin vào triển vọng dài hạn

Nếu như nửa năm trước, 41% người tham gia khảo sát cho rằng lãi suất ngân hàng đang ở mức hợp lý, thì hiện tại, chỉ còn 26% đồng tình với chính sách lãi suất, hầu hết đều đánh giá lãi suất đang ở mức cao hoặc quá cao. 

Đầu năm 2023, chỉ số đo lường mức độ hài lòng của người tiêu dùng bất động sản về thị trường, về triển vọng tăng giá bất động sản trong tương lai và khả năng mua nhà cũng giảm từ 12 đến 14 điểm so với nửa cuối năm 2022. 

Xem thông tin chi tiết tại đây

TS. Đinh Thế Hiển: Doanh nghiệp không nên trông đợi vào những chính sách “thần kỳ”

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần 5, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhận định, tình hình thế giới có thể tiếp tục diễn biến khó lường, với những cơ hội, khó khăn, thách thức đan xen trong năm 2023 và Việt Nam cũng không tránh khỏi xu thế đó.

Việc nhận diện đa chiều bối cảnh kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ góp phần giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó và hóa giải thách thức trong năm 2023. Trong đó, điều quan trọng là doanh nghiệp phải chấp nhận đổi mới, và sẵn sàng xoay chuyển, sáng tạo để thích nghi với bối cảnh mới. Xung quanh vấn đề này, Reatimes đã có cuộc trò chuyện với Chuyên gia kinh tế – TS. Đinh Thế Hiển – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế ứng dụng.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Căn hộ dịch vụ trở lại?

Mới đây, Colliers Việt Nam đã chỉ ra những “điểm sáng” của thị trường căn hộ dịch vụ tại TP.HCM và Hà Nội.

Theo đó, tại TP.HCM, lượng người nước ngoài đến thành phố trong quý IV/2022 cho thấy kết quả tích cực của thị trường căn hộ dịch vụ tại. Cả hai phân khúc hạng A và hạng B chứng kiến sự tăng trưởng tăng lần lượt từ 81% lên 92% và từ 77,5% lên 88%.

Căn hộ dịch vụ trở lại?

Giá thuê căn hộ dịch vụ hạng A dao động từ 1.700 – 7.500 USD/căn, bình quân khoảng 30,2 USD/m2/tháng; hạng B dao động từ 1.100 – 5.400 USD/căn, bình quân gần 25 USD/m2/tháng. Có thể thấy, giá thuê căn hộ hạng A đã giảm nhằm thu hút lượng khách trong nước và các chuyên gia nước ngoài quay trở lại, giúp cho tỷ lệ lấp đầy tăng lên đến 11% so với quý trước.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia

Trong phiên thảo luận Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 tại Quốc hội ngày 7/1/2023, Đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải – Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa nhận định, quy hoạch tổng thể quốc gia là một nhiệm vụ rất mới, rất khó và rất quan trọng, để chúng ta bố trí, phân bổ không gian phát triển kinh tế – xã hội, phát triển vùng, liên vùng.

Đại biểu Mai Văn Hải đánh giá rất cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ, ngành có liên quan trong vấn đề xây dựng quy hoạch. Quy hoạch được chuẩn bị rất công phu và đã hoàn thiện theo tinh thần Kết luận số 45 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 và tầm nhìn đến 2050; đồng thời đề xuất một số nội dung.

Xem thông tin chi tiết tại đây

]]>
Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 https://trithucdoanhnhan.net/quoc-hoi-thong-qua-quy-hoach-tong-the-quoc-gia-thoi-ky-2021-2030-tam-nhin-den-nam-2050/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:59 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2920

Chiều 9/1/2023, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế – xã hội, tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế – xã hội. Định hướng phát triển vùng và liên kết vùng gồm có: Vùng trung du và miền núi phía Bắc, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt khoảng 8 – 9%/năm.

Vùng đồng bằng sông Hồng phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9%/năm.

Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7 – 7,5%/năm.

Vùng Tây Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7 – 7,5%/năm.

Vùng Đông Nam Bộ phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 8 – 8,5%/năm.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 6,5 – 7%/năm.

Nghị quyết xác định phát triển vùng động lực phía Bắc, bao gồm Thủ đô Hà Nội và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục Quốc lộ 5 và Quốc lộ 18 qua các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, trong đó, Thủ đô Hà Nội là cực tăng trưởng.

Phát triển vùng động lực phía Nam, bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục Quốc lộ 22, Quốc lộ 13, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51 qua các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung, bao gồm khu vực ven biển (các địa bàn cấp huyện từ đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đến biển) thuộc các tỉnh Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; trong đó thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Hình thành, phát triển vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm thành phố Cần Thơ, các địa bàn cấp huyện của các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc – Nam phía Đông đoạn Cần Thơ – Vĩnh Long, cao tốc An Hữu – Cao Lãnh, cao tốc Bắc – Nam phía Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi) và thành phố Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng.

Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực gắn với cảng biển Trần Đề, Sóc Trăng.

Từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền núi phía Bắc; khu vực Bắc Trung Bộ (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) kết nối giữa miền Trung và đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Nguyên; khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và phụ cận).

Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050
449/489 đại biểu có mặt tại hội trường biểu quyết tán thành thông qua Nghị quyết, chiếm 90,52%. Ảnh: quochoi.vn

Phấn đấu tăng trưởng GDP bình quân 6,5-7,5%

Nghị quyết nêu rõ phạm vi ranh giới quy hoạch là toàn bộ lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, lòng đất, vùng biển, vùng trời Việt Nam.

Không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng, khu vực và quốc tế gắn với khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, từng vùng, từng địa phương trong vùng nhằm huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực chất lượng cao và các tiềm năng, lợi thế khác cho phát triển để hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Quốc hội thống nhất, giai đoạn 2031 – 2050 phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5 – 7,5%/năm. Đến năm 2050 GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 27.000 – 32.000 USD; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70 – 75%; Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt từ 0,8 trở lên, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.

Còn đến năm 2030, kinh tế phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp – xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 50%.

Quốc hội yêu cầu phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế – xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc – Nam, các hành lang kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, Mộc Bài – Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.

Phát triển đô thị bền vững theo mạng lưới; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%; phấn đấu từ 3 – 5 đô thị ngang tầm khu vực và quốc tế. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững và gắn với đô thị hoá; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

Trình bày báo cáo tại hội trường, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, bảo đảm phù hợp với Chiến lược và các Nghị quyết về phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và địa phương đã được ban hành. Đồng thời đã rà soát lược bỏ những nội dung quá cụ thể, chi tiết để cụ thể hóa ở các quy hoạch cấp dưới, bảo đảm yêu cầu bao quát, ngắn gọn.

Đối với đề nghị bổ sung định hướng hình thành cơ quan điều phối vùng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và thể hiện tại điểm đ khoản 2 Điều 15 dự thảo Nghị quyết giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế điều phối vùng; nâng cao hiệu quả hoạt động hội đồng điều phối vùng gắn với các nhiệm vụ điều phối, thúc đẩy liên kết cụ thể; nghiên cứu việc xây dựng cơ chế về phối hợp nguồn lực giữa các địa phương.

Đồng thời, sắp xếp lại kết cấu của dự thảo Nghị quyết về vùng kinh tế – xã hội, vùng động lực phát triển, hành lang kinh tế để làm rõ hơn sự liên kết. Bên cạnh đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục làm rõ hơn các nội dung theo ý kiến đại biểu Quốc hội để cụ thể hóa trong các quy hoạch vùng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng tiếp thu chỉnh lý danh mục là danh mục dự kiến các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, rà soát đưa một số dự án quan trọng trong lĩnh vực giao thông đang được triển khai và sẽ tiếp tục được triển khai, một số dự án có vai trò quan trọng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ quy hoạch và giai đoạn tiếp theo đã được xác định trong Chiến lược phát triển, các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội. Các dự án khi được nghiên cứu, triển khai các thủ tục đầu tư nếu đáp ứng tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thì phải trình Quốc hội xem xét, quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật, đồng thời sẽ được bổ sung vào danh mục này như quy định tại khoản 2 Điều 13 dự thảo Nghị quyết.

Liên quan đến đề nghị làm rõ thêm cơ sở xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế các vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng cao hơn so với tốc độ phát triển trung bình chung của quốc gia, trong khi quy mô kinh tế các vùng này ở mức cao hơn nhiều so với bình quân chung, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, mục tiêu tăng trưởng của vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng của dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia đã phù hợp với Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7/10/2022 và Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, các mục tiêu này cũng thể hiện định hướng tập trung nguồn lực cho 2 vùng động lực để phát triển hạ tầng và thu hút đầu tư, bảo đảm vai trò đầu tàu, dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.

Về ý kiến đề nghị xác định rõ phạm vi không gian biển Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết phạm vi không gian biển được quy định tại Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 24/7/2020 của Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch không gian biển. Do đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia chỉ đưa ra những định hướng lớn về phát triển không gian biển; các nội dung về việc phân vùng chức năng, sắp xếp, phân bổ và tổ chức không gian các ngành, lĩnh vực trên vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng trời sẽ được xác định cụ thể trong Quy hoạch không gian biển quốc gia.

Ngoài các nội dung nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, các ý kiến cụ thể đã được nghiên cứu tiếp thu, giải trình trong Báo cáo đầy đủ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện Hồ sơ sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo rà soát, tiếp thu ý kiến sửa đổi về câu chữ, kỹ thuật văn bản để hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết. 

]]>
Quy hoạch tổng thể quốc gia: Cụ thể hóa vị thế Thủ đô Hà Nội https://trithucdoanhnhan.net/quy-hoach-tong-the-quoc-gia-cu-the-hoa-vi-the-thu-do-ha-noi/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:47 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3186

Quy hoạch tổng thể quốc gia nêu bật 2 nhiệm vụ của Hà Nội là cần phải thực hiện tốt việc lập Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng…

Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ hai khóa XV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được coi là bức tranh tổng thể về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cả quốc gia. Với riêng thành phố Hà Nội, quy hoạch này nhấn mạnh nhiều nội dung quan trọng, cụ thể hóa và khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò, vị thế của Thủ đô.

Quy hoạch tổng thể quốc gia: Cụ thể hóa vị thế Thủ đô Hà Nội
Quy hoạch tổng thể quốc gia nêu bật hai nhiệm vụ của Hà Nội là cần phải thực hiện tốt việc lập Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Vai trò dẫn dắt đặc biệt

Trình bày trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, việc lập quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém lâu nay trong quy hoạch, đặc biệt là tình trạng tổ chức không gian phát triển bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa tập trung nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực và bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, trước đây có tới 3.650 quy hoạch, sau khi giảm tới 97%, hiện chỉ còn 111 quy hoạch. Đó là quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch của 6 vùng kinh tế, quy hoạch của các tỉnh, thành phố và quy hoạch ngành. Từ con số này, kiến trúc sư Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam nhấn mạnh đến vai trò “dẫn dắt” của quy hoạch tổng thể quốc gia với các cấp quy hoạch tiếp sau.

“Quy hoạch tổng thể quốc gia lần đầu tiên được thông qua có ý nghĩa đặc biệt, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để phê duyệt, triển khai quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và nhiều loại hình quy hoạch khác. Trong 6 quy hoạch vùng, Chính phủ mới phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 63 tỉnh, thành cũng mới chỉ có 2 quy hoạch tỉnh được duyệt. Do đó, quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ tác động, thúc đẩy việc triển khai các quy hoạch khác”, ông Trần Ngọc Chính nêu.

Một trong những nội dung đáng chú ý của quy hoạch tổng thể quốc gia là định hướng phân bổ các vùng đô thị lớn, gồm: Vùng đô thị Hà Nội, vùng TP.HCM, vùng đô thị Đà Nẵng, vùng đô thị Cần Thơ. Trong đó, hệ thống đô thị vùng Hà Nội gồm: Thủ đô Hà Nội và các đô thị vệ tinh thuộc các tỉnh xung quanh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng trung du và miền núi phía Bắc, nhằm chia sẻ chức năng về giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, thương mại, dịch vụ, du lịch và hạn chế sự tập trung quá mức vào đô thị trung tâm Hà Nội.

Vai trò dẫn dắt đặc biệt
Quy hoạch tổng thể quốc gia nhấn mạnh việc phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, năng động, sáng tạo.

Khẳng định mạnh mẽ hơn vị thế Thủ đô

Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nhấn mạnh việc phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, năng động, sáng tạo, dẫn dắt; đầu tàu trong khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, tài chính, ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế…

Gần nhất, Nghị quyết số 15-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định vai trò của Thủ đô với vùng và cả nước. “Với những định hướng về phát triển vùng đô thị Hà Nội, quy hoạch tổng thể quốc gia khẳng định hơn nữa vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng như giải pháp cụ thể hóa định hướng phát triển mà Bộ Chính trị đã đặt ra với Hà Nội”, Tiến sĩ, kiến trúc sư Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam nêu.

Còn theo kiến trúc sư Trần Ngọc Chính, với những nội dung được định hướng tại quy hoạch tổng thể quốc gia, Hà Nội được xác định là Thủ đô của một đất nước hơn 100 triệu dân đang trên đà phát triển, có lịch sử văn hóa lâu đời. Đặc biệt, Hà Nội không chỉ phát triển trong phạm vi diện tích 3.344km2 mà phải nghiên cứu rộng ra các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, trung du, miền núi phía Bắc và tính đến cả liên kết với vùng duyên hải Bắc Bộ, trong đó có Quảng Ninh và Hải Phòng.

Quy hoạch tổng thể quốc gia với những định hướng phát triển Thủ đô bài bản, tạo một trong những cực tăng trưởng cho cả nước là vùng Thủ đô. Trong đó, Hà Nội với vai trò dẫn dắt, tạo sức mạnh lan tỏa trong vùng và ngược lại, vùng tác động đến Hà Nội để phát triển kinh tế đa dạng. Theo Tiến sĩ, kiến trúc sư Đào Ngọc Nghiêm, trong bối cảnh quy hoạch tổng thể quốc gia đã được thông qua, cần sớm xem xét sửa đổi, hoàn thiện Luật Thủ đô, nhằm tạo bộ khung pháp lý hoàn chỉnh và có những giải pháp đồng bộ thực hiện vai trò mà cả nước giao cho Hà Nội.

Quy hoạch tổng thể quốc gia cũng nêu bật hai nhiệm vụ của Hà Nội là cần phải thực hiện tốt việc lập quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

“Đây là những nhiệm vụ rất lớn và đặt ra nhiều khó khăn cho Hà Nội vì hai quy hoạch cùng ranh giới hành chính, việc triển khai bảo đảm tính thống nhất, tránh mâu thuẫn, chồng chéo. Mỗi quy hoạch phải phát huy bản sắc, có “chất” riêng, hướng đến mục tiêu tạo sức bật cho Thủ đô phát triển bền vững. Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội đã chỉ đạo quyết liệt để các đơn vị, sở, ngành thực hiện nhiệm vụ đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng. Sự vào cuộc của các chuyên gia, tư vấn hàng đầu cũng được kỳ vọng giúp hai quy hoạch sớm được duyệt, tạo cơ sở triển khai các dự án phát triển Hà Nội trong tương lai đúng với vị thế mà quy hoạch tổng thể quốc gia định ra cho Thủ đô”, kiến trúc sư Trần Ngọc Chính kỳ vọng./.

]]>