Reablog – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Reablog – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Bập bùng lửa ấm ngày đông… https://trithucdoanhnhan.net/bap-bung-lua-am-ngay-dong/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:46 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1686

Lửa ấm mùa đông hoài niệm cho ta sống chậm để nếm thấm và nghe được cả những âm thanh vô hình. Từ đó hiểu thấu rõ hơn giá trị cuộc sống của tươi non, của ấm áp, cứ lằng lặng ngấm vào mình như một năng lượng mới…

Không biết ai đặt tên cho cái rét đầu đông là rét ngọt. Có chút xuýt xoa khi ngậm cái tái tê của kẹo gió. Có chút thu mình để trỗi dậy bùng nổ bao sắc màu quần áo của nhân tạo khi thiên nhiên lặng lẽ nhường ngôi rụng lá, tái hoa. Nhưng đằng sau thớ gỗ xù xì, mạch nhựa mạch sống vẫn âm thầm đọng chảy thành những hổ phách thời gian cất giữ chút dùng dằng của thu mới qua và xuân thì chưa tới. Nhịp cầu vồng mùa đông bắc giữa cũ và mới, rụng và mọc của chuyển động tự nhiên, của vận động con người từ gốc đến ngọn. Bếp lửa ngày đông chính là điểm nhấn hội tụ vừa bập bùng ảo ảnh và cũng chính là nơi vun lên những nhỏ nhoi niềm vui tí tách len lỏi vào tâm tư, lan tỏa vào mạch giao cảm khi đốt những lụi tàn, nhen nhóm những tro than, thổi bùng lên hy vọng.  

Không hiểu sao tôi vẫn thích “bếp lửa ngày đông” hơn là “bếp lửa mùa đông”, những khoảnh khắc bất chợt với những ngấn thời gian chia nhỏ như lóng mía, đốt cau cứ từng nấc một để vươn cao và bùi ngọt. Vị ngọt của hương đất, hương đời, trong ngọt có cả bùi và ấm. Có cả chút đắng đót để miếng trầu thêm đậm cho sắc da thêm đỏ, cái kẹo mía thêm giòn, những sợi mật thêm dai. Một sự dẻo dai quyến luyến hòa quyện đánh thức mọi khứu giác chứ không phải bọt bèo hòa tan, nông nổi nhạt nhẽo.

Bập bùng lửa ấm ngày đông…
Bếp lửa ngày đông chính là điểm nhấn hội tụ vừa bập bùng ảo ảnh và cũng chính là nơi vun lên những nhỏ nhoi niềm vui tí tách… Ảnh: Internet

Bếp lửa ngày đông có gì lạ đâu mà sao cứ rưng rưng lạ lùng, cứ làm nhẹ nhõm cả người như nâng bổng ta lên mà không hời hợt bãng lãng, cứ bập bùng quấn quýt thật độ lượng và tin cậy biết bao. Khác với ánh lửa ga xanh lè hay ngọn lửa hồ quang nhức mắt của hơi thở công nghiệp lạnh lùng có chút gì đó vô cảm. Hơi lửa có sóng điện riêng, có tần số riêng bằng sự đồng điệu của những nhịp đập trái tim đỏ thắm sắc hồng cầu tình cảm. Có hai câu thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh cứ ám ảnh day dứt trong tôi:

Còn một chút hoa dong riềng cuối dậu

Có một ngày sương muối đến mang đi”.

Màu hoa dong riềng như một ánh lửa thiên nhiên lẻ loi thắp lên từ đất, tự dâng hiến mình để củ khoai bụ bẫm hơn, thơm bùi hơn, giấu sau màu đất giá lạnh sương muối của mùa đông khắc nghiệt. Mới biết sức sống của thiên nhiên lớn lao hết mình thì sao ta lại không truyền giữ và khơi bùng bếp lửa như một hồi âm đồng vọng giữa héo khô và tươi cháy, giữa mộc đến hỏa đúc cho người một khối kim trong veo không đọng cặn cát bụi đời thường. Mà kết tụ thành “bông hồng vàng” như tên một thiên truyện nổi tiếng của nhà văn Nga, những cám vàng li ti, in hình vảy lửa của thổn thức tình người.

Mùa đông trong tôi lan tỏa cái cảm giác: “Bếp lửa bập bùng như nỗi nhớ dây dưa”. Bếp lửa như tụ hội tâm điểm của tình người trong những ngày giá rét. Những gộc tre khô nỏ được bố tôi đánh sẵn, phơi từ những ngày hè nóng bức cháy thật đượm. Tiếng nổ lách tách của vỏ tre, rễ tre cháy thật vui. Thân tre ngã xuống để lấy cái bền dẻo dai làm đủ thứ việc từ dựng nhà, kèo cột đến đan thúng, đan rá rồi võng tre. Nghĩa là tre vẫn sống đời mình cạnh  đời người, chỉ có gốc tre là chết, nhưng chết để tỏa hơi ấm cho người.

Bập bùng lửa ấm ngày đông…
Bếp lửa như tụ hội tâm điểm của tình người trong những ngày giá rét… Ảnh: Internet

Lửa ấm của vùng cao khi người nói với người bằng giọng sương, giọng khói. Khi những luống rau cải vẫn trổ những đọt nắng vàng, ươm nắng vàng, gieo nắng vàng. Để rồi lá thì xanh, cành thì trắng reo lên trong chảo mỡ sôi đem lại bữa cơm xuýt xoa nóng hổi. Cho má em bé thêm hồng, cho tóc con gái bản thêm mượt, cho cái chữ gập gềnh đến lớp thêm tươi màu mực mới.

Lửa ấm mùa đông của người miền biển, hình như nước biển mùa này bốc hơi và ấm hơn chăng khi con sóng nhuộm màu chì, màu tro nặng trịch. Bát nước mắm nguyên chất màu cánh gián đưa lại ngọn lửa ấm trong lòng để bắp tay, vồng ngực cuồn cuộn kéo cả biển về nhà trong những mắt lưới lân tinh như lấp lánh ánh lửa mùa đông của biển. Và mẹ ta đã bày ra những con cá, con tôm còn búng lách tách, roi rói trong cái căm căm rét giá ngày đông của người đi chợ: “Chao ôi! Cá tôm sao mà tươi ngon nhìn đã sướng mắt, ấm cả lòng”.

Lửa ấm mùa đông phố thị khi lá bàng ngả màu đỏ ối như một tàn lửa còn giăng mắc trên cây. Hun hút những ngõ phố dài với tiếng rao của người bán hàng rong. Lại nhớ cái cảnh bạn bè chụm đầu vào nhau bên những lò than nướng bắp ngô, củ khoai hôi hổi nóng. Dường như mùa đông tan đi trong những quà mọn từ quê ra phố ấy. Và đông cũng là dịp để ta khoe bao màu áo len, áo rét với những sắc màu tưng bừng để:

Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh như cũng ánh theo hồng

Em đi lửa cháy trong bao mắt…

(Vũ Quần Phương – Áo đỏ).

Bập bùng lửa ấm ngày đông…
Lửa ấm mùa đông phố thị khi lá bàng ngả màu đỏ ối như một tàn lửa còn giăng mắc trên cây. Ảnh: Internet

Lửa ấm mùa đông xua đi cảm giác ẩm ướt mù sương. Và sợ nhất là ẩm cả hồn người, mốc cả lòng người bởi sự xa cách, lãnh cảm như muốn ru rú co cụm. Lửa ấm mùa đông như mời gọi ta xích lại gần nhau hơn, trải lòng với nhau hơn. Và nắng đông thì mới ra ràng. Một sóng sánh mìn mịn, một óng ánh rỡ ràng, một lung linh tươi thắm. Nó như là nắng mật ong, thứ mật lìm lịm ngọt như mật khoai lang nướng…

Lửa ấm mùa đông hoài niệm cho ta sống chậm để nếm thấm và nghe được cả những âm thanh vô hình để hiểu thấu rõ hơn giá trị cuộc sống của tươi non của ấm áp, cứ lằng lặng ngấm vào mình như một năng lượng mới. Tôi lại chợt nhớ hai câu thơ của Xuân Diệu:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò.

Sự nhạy cảm động lòng ấy giúp ta như một điểm tựa mà lửa ấm là chất xúc tác là thứ gia vị điểm tô không hời hợt sao nhãng… Lửa ấm mùa đông, tôi lại nhớ đến bà tôi. Chao ôi, một đời người có hai lần làm con trẻ khi cái tuổi đã nhớ nhớ, quên quên. Bà chống rét bằng trầu cay đầm đậm và bát nước chè xanh sánh vàng bốc hơi hôi hổi khói.

Nhớ lắm những mùa đông rơm rạ của nông thôn trong cái ổ rơm ngày xưa:

Rơm bọc tôi như kén bọc tằm

Tôi thao thức trong cái mật ong đồng ruộng

(Nguyễn Duy – Hơi ấm ổ rơm).

Những buổi chiều trên đồng sau vụ gặt là ngổn ngang những đám khói của: “Trẻ con đốt khói đồng hun chuột/Cánh diều mắc cạn dưới vòm tre”. Khói thật thơm, thơm mùi cá đồng nướng mà cho đến bây giờ tóc tôi ngả sang sợi bạc vẫn còn vấn vương. Cái mùi khói đã nhuộm vào da thịt mình không thể bóc ra được, đã ngấm vào ký ức mình bịn rịn, chập chờn cả trong mơ. Và cả khói sóng nữa, khói của sông, của biển, của thung lũng vùng cao cứ vun vào tôi, cứ nâng nhẹ bổng tôi lên vừa chơi vơi vừa đầm đậm, lan tỏa…

Bập bùng lửa ấm ngày đông…
Cái mùi khói đã nhuộm vào da thịt mình không thể bóc ra được, đã ngấm vào ký ức mình bịn rịn, chập chờn cả trong mơ… Ảnh: Internet

Trong những ngày giá lạnh đầu đông này ngoài đảo khơi xa, các chiến sĩ hải quân tựa lưng tìm hơi ấm vào nhau trong nhà giàn heo hút gió thèm nghe tiếng bập bùng cơm sôi với bóng dáng mẹ già. Bếp lửa ngày đông – bếp lửa mùa đông đang nhóm trong ta bao niềm tin cuộc sống. Đừng để ngày xưa ấy lụi tàn – ai đó đã từng nói thế!

Trong ánh sáng quang phổ mặt trời, ta thấy cả diệp lục màu xanh. Trong ánh sáng điện gần như không trọng lượng, ta thấy cả quang hợp màu sáng và trong ánh sáng của bếp lửa thắp lên cái ngọn, ta thấy cả màu ấm tình người . Và có một bếp – lửa – thơ bỗng bập bùng hiện về trong ký ức:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai, sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng: Bếp lửa!”

(Bằng Việt – Bếp lửa).

]]>
Vàng đen trong lòng tay thợ lò https://trithucdoanhnhan.net/vang-den-trong-long-tay-tho-lo/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:45 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1702

Và giấc mơ mua đất, mua nhà riêng của thợ mỏ đang dần dần tiến tới sự an cư lập nghiệp, cho cuộc đời thợ lò làm ra vàng đen, cầm nắm vàng đen trong lòng tay…

Thật hiếm có ngôi chùa nào đẹp như chùa Cái Bầu ở Vân Đồn, Quảng Ninh. Chùa có Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm mặt hướng ra biển. Ở đó mỗi sớm, tôi hay gặp những sư cô trẻ tuổi, họ đang tu tập, quét lá, cắm hoa và cầu nguyện. Mỗi người có một phận đời như một cây thông trên đỉnh núi, mỗi cây thông thường nhìn biển cuối ngày vỗ sóng lên bờ đá mà sắc sắc không không. Khác hẳn với bậc chân tu, ngày nghỉ cuối tuần nhiều thợ mỏ ở ven biển đã ra bãi biển mua sắm và ăn uống.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Chùa Cái Bầu ở Vân Đồn, Quảng Ninh (Ảnh: HVH)

Gần nhất là mỏ Mông Dương chỉ cách một sải bay chừng 2 cây số, xa hơn là mỏ Vàng Danh, Đèo Nai. Ngày mới, những người thợ mỏ vào ca vừa náo nhiệt vừa tưng bừng, khác hẳn không gian tĩnh lặng ở Thiền viện Trúc Lâm. Thị trấn Mông Dương bây giờ sầm uất hơn xưa, nhưng về hàng hóa tiêu dùng hằng ngày cho vài ngàn người công nhân trên mỏ thì thấy thị trấn còn khan hiếm nhiều thứ, mặt hàng tiêu dùng chưa phong phú cho đời sống thợ mỏ như trên thành phố lớn. Thợ mỏ ở Mông Dương sang Hà Lầm, hay xuống mỏ lộ thiên Đèo Nai gần đó, cũng đang rất cần một nguồn cung cấp sản phẩm tiêu dùng thiết thực cho cuộc sống của những người thợ đầy nỗi vất vả.

Thợ lò. Đó là một nghề chuyên biệt, đặc biệt khi họ làm việc dưới độ sâu lòng đất 300 mét so với mực nước biển.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Ảnh: Internet

Đời thợ mỏ ngày nay đã khác xưa rất nhiều. Không chỉ có người dân địa phương ở Đông Triều, Uông Bí hay Mông Dương, mà thợ hầm lò bây giờ ở các mỏ của ngành than Việt Nam được chú trọng tuyển dụng với xa hơn tầm tay. Đó là đội ngũ thợ trẻ từ các vùng núi cao, trung du, ví dụ như thợ lò người dân tộc Dao, Mông, Tày ở Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên đến học nghề để làm thợ mỏ. Và cũng không thiếu cái khó cho công ty than khi tuyển dụng công nhân, có năm chăm lo đào tạo học nghề xong, thợ lò đi làm thấy khó, thấy cực, họ bỏ việc. Với khoảng trống ấy, ngành than đã tìm mọi giải pháp tháo gỡ để giữ chân người thợ lò ở lại với nghề. Dù khó đến mấy thì công tác chăm lo đời sống vật chất cho công nhân đạt hiệu quả toàn diện trong bữa ăn giấc ngủ, nhà ở và sinh hoạt là vô cùng quan trọng.

Mỗi mùa xuân, mùa lễ hội, các hoạt động văn nghệ, nhu cầu giao thoa văn hóa ở đất mỏ cũng đa sắc hơn. Người ở núi múa sạp, nhảy sạp thổi khèn Mông, hòa ca với làn điệu dân ca đồng bằng của thợ lò Bắc Bộ. Tất nhiên, thợ lò vẫn có người từ Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh và các vùng lân cận như Quảng Yên, Uông Bí đến mỏ Mông Dương, Vàng Danh, Hà Lầm làm việc.

Đến đây, bạn sẽ được chứng kiến một cuộc đổi mới toàn diện trong đời sống thợ lò khi họ đi làm thợ và không phải lo nhà ở nếu được tuyển dụng. Ở các mỏ than Vàng Danh, Mạo Khê, Mông Dương, Hà Lầm, mọc lên hàng loạt tòa nhà chung cư hiện đại, có thang máy, mỗi công nhân được công đoàn và lãnh đạo tập đoàn than chăm lo tới từng bữa ăn giấc ngủ. Phòng ở được trang bị điều hòa, tủ lạnh, máy giặt, tivi; có bể bơi và sân chơi bóng bàn, bóng đá, có bàn bi a. Ở mỏ Vàng Danh có hẳn phòng máy đặt ghế mát sa cho công nhân khi cần nghỉ dưỡng. Và khi đi đến mỏ, tôi mới thấy rõ được sự đổi mới từng ngày trong đời sống của thợ lò.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Chủ tịch Công đoàn Vũ Đình Việt với thợ lò ca ba mỏ Vàng Danh. (Ảnh: HVH)

Tôi đi ca ba, gặp nhân vật điển hình của mỏ Vàng Danh đang nỗ lực để trở thành anh hùng lao động (AHLĐ) trong thời kỳ đổi mới, đó là thợ lò Phạm Đình Duẩn. Anh còn trẻ, 38 tuổi, đã có 17 năm làm thợ và từng được đi nhiều nước châu Á, cũng từng trải những mất mát khổ đau của cuộc đời thợ lò. 17 năm, Phạm Đình Duẩn còn rất trẻ so với AHLĐ Nguyễn Văn Tía ở mỏ Mạo Khê có 33 năm làm thợ lò. Hằng ngày với nhịp sống, cứ đi xe từ nhà đến cửa lò mất đúng một tiếng; vào nhà ga than chờ đi tàu (song loan) vào gương than mất thêm một giờ nữa; tan ca, tắm giặt, ăn đêm mất một giờ. Cộng lại một ngày, thời gian đi lại chờ đợi thì thợ lò mất từ 12 – 13 tiếng đồng hồ. Còn lại phải ngủ, lấy sức và dành dụm thời gian cho vợ con.

Bạn thợ của Duẩn những năm vừa mới lên làm mỏ, có người từng bị vợ bỏ, vợ chê nghèo. Cảnh gà trống nuôi con một mình trong 7 – 8 năm, đơn chiếc, khiến Duẩn thương xót bạn vô cùng. Lại có năm thợ lò bị ngạt khí, bạn mất đúng vào dịp Tết, mà vợ còn rất trẻ, con còn bé tý. Công ty đã tìm cách nhận vợ thợ lò vào mỏ, làm ở bếp ăn hay nhà đèn, tạo việc làm tình nghĩa cho đời sống hậu phương của người thợ mỏ. Những mùa xuân ấy đối với Duẩn là những hy vọng cho tương lai ở bến đợi sân ga than.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Bữa ăn đêm của thợ lò mỏ Vàng Danh (Ảnh: HVH)

Duẩn đã đóng góp rất nhiều sáng kiến cho việc khai thác lò. Ở Việt Nam, máy khoan thủ công chưa phát triển, công nghệ máy đào lò, máy khấu than chưa đuổi kịp công nghệ cao như ở hầm Nhật Bản. Và sau mỗi chuyến đi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia…, thợ lò Phạm Đình Duẩn nhìn xa rộng hơn, anh hiểu thợ lò Nhật Bản có đời sống cao hơn ở Việt Nam, họ được trang bị cả máy móc công nghệ cao, đỡ tốn sức hơn thợ lò Việt Nam. Và Duẩn chịu khó mày mò học hỏi, vừa làm vừa học xong thạc sỹ, dù anh vẫn làm thợ lò để tìm cách đóng góp nhiều sáng kiến cải tiến trong lao động sản xuất, nắm bắt thực tiễn trong hầm lò ở Vàng Danh. Anh luôn tâm niệm phải gắng làm sao cho hiệu quả khai thác than công suất cao mỗi tháng mỗi năm.

Mỏ than vẫn còn nhiều máy khoan thủ công chưa phát triển như công nghệ khoan ở hầm lò Nhật Bản hay Hàn Quốc. Máy khấu than ở các nước đều đi trước ta một bước, họ có công nghệ tiên tiến nhằm giải phóng sức lao động chân tay cho con người. Duẩn đi thực tế 3 tháng, giấc mơ sáng kiến nhân rộng sau khi đi hầm lò ở Kushiro (Nhật Bản), anh quan sát và khát vọng cháy bỏng hơn để nỗ lực đóng góp sức mình cho mỏ.

Thực tế nhìn đời sống thợ lò ở Nhật, ở Trung Quốc hay Hàn Quốc đã khiến anh tự đặt câu hỏi: “Vì sao cách khai thác ở mỗi nơi trong lòng đất lại khác nhau và giống nhau để tìm ra những vỉa quặng mới, khai quật loại vàng đen mới trong hầm sâu, giải pháp cho người lao động sao cho năng suất hiệu quả”… Nhưng sự khác nữa, đó chính là đời sống của công nhân mỏ Nhật Bản rất cao và họ nhàn hơn so với công nhân Việt Nam một phần nhờ máy móc công nghệ hiện đại. Duẩn mơ ước Việt Nam cũng sẽ tiến tới khoa học công nghệ cao phục vụ cho ngành khai thác mỏ giống như Nhật Bản.  

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Vàng đen trong lòng tay thợ lò

Bể bơi, phòng tập thể thao và máy mát sa cho công nhân mỏ. (Ảnh: HVH)

Tôi gặp thợ điện Phạm Quang Thiều mới 30 tuổi, trực bơm ở trạm phân phối điện 6kV cho toàn bộ hầm lò, em cho hay: “Bọn em đi làm rồi về phòng đọc sách, hôm nào mệt quá không bơi lội thì đi nằm ghế mát xa. Chúng em cũng cố gắng học thêm, đứa chơi ghi ta, học thêm ngoại ngữ nữa, chỉ có điều thợ mỏ toàn con trai, hơi hiếm bạn gái. Tuổi 30 – 35, chúng em đều chưa có người yêu”. Nếu làm phép tính trừ đi những thợ lò có vợ ở quê, còn trai tráng thợ lò thì hiếm gặp gỡ được bạn gái ở đường xuống mỏ.

Khác với các thợ lò dân tộc Kinh hay thợ lò ở mỏ Mông Dương, thợ lò Hoàng A Phềnh ở huyện Đại Yên, Sơn La đi làm thợ được 6 năm rồi. Anh cho hay, cùng bạn thợ với anh có bạn Mùa A Dua và Chả A Qua cũng làm dân thợ mỏ. Hồi trước ở làng cũng có người đi làm thuê bên Đông Hưng (Trung Quốc), đi đóng hải sản thuê khổ lắm mà thu nhập không có bao nhiêu. Được đi làm thợ mỏ, học hỏi, làm được 26 công có thu nhập 24 triệu một tháng nên vui lắm. Một năm gửi về nhà cho vợ được 70 triệu, em vừa xây xong nhà có máng nước, có bể nước tiện nghi.

“Được làm chủ đời mình trên đất nước mình sướng hơn đi làm thuê cho nước ngoài. Dù có đi làm ở Campuchia hay Malaysia, Đài Loan đều thua mình, không đâu bằng ở nhà mình”. Hoàng A Phềnh khẳng định thế! Chỉ mới 6 năm làm thợ lò, con của vợ chồng A Phềnh được đi học không lo thiếu chữ, con của Mùa A Dua cũng vậy. Nhà của Chả A Qua còn nghèo nhưng cũng lợp xong mái, mua được hai con trâu để nhân giống cấy cày. Đời thợ mỏ được lo từ chỗ ngủ đến bữa ăn trưa, ăn sáng, về nhà chỉ lo một bữa thôi, công ty còn lo trang bị thêm đủ thứ từ túi xách, ba lô về quê. Phòng ở không có máy giặt cũng được công đoàn lo giúp đỡ. Không chỉ ở Vàng Danh, Mông Dương, Hà Lầm hay Mạo Khê mà các mỏ than khác cũng đã được giám đốc, đội ngũ công đoàn chăm sóc thấu đáo đến đời sống vật chất và tinh thần thợ mỏ. Và giấc mơ mua đất, mua nhà riêng của thợ mỏ đang dần dần tiến tới sự an cư lập nghiệp, cho cuộc đời thợ lò làm ra vàng đen, cầm nắm vàng đen trong lòng tay.

Vàng đen trong lòng tay thợ lò
Ảnh: Internet

Mỗi ngày, thiên nhiên ở biển Vân Đồn hay biển Hạ Long, mặt trời vẫn chiếu sáng như xưa, trăng cũng vằng vặc như xưa, chỉ có biển Quảng Ninh dồn chật lại, Vân Đồn đang lấn biển xây chợ quê, khu giải trí cho nhân dân. Ở Hạ Long chỉ có những con đường nhỏ đi ra biển. Sự giàu có hiện đại ở miệt biển này cũng đang đánh thó, đánh mất sự hoang sơ của biển, sự hoang vu của sóng.

Và ở Vàng Danh, Mông Dương hay Hà Lầm, Mạo Khê đã có quy hoạch kiến trúc nhà ở cho công nhân trở nên khang trang, đẹp đẽ. Nhưng bên cạnh đó ở thị trấn Mông Dương, dân ngụ cư vẫn xây nhà theo cách nhỏ lẻ, manh mún nhấp nhô. Điều này cũng đang đặt ra câu hỏi nhỏ về kiến trúc nhà ở công nhân ngành than và câu hỏi lớn cho các nhà quản lý đô thị ven biển.

Và không chỉ nhìn tỉnh Quảng Ninh mà còn nhìn nhiều thành phố miệt biển của Việt Nam trong tầm nhìn mới, cục diện mới./.

]]>
Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế https://trithucdoanhnhan.net/ta-nhan-ra-hai-bo-xanh-den-the/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:23 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2366

Tôi đã từng đằm mình trên dòng sông Nghèn quê hương, uống nước trên những dòng kênh xanh, những ngày đi học. Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy, lại được ngắm nhìn những đoàn thuyền trẩy hội.

Quê tôi có một dòng sông, tên mộc mạc – sông Nghèn. Sông bắt nguồn từ Thị xã Hồng Lĩnh, trườn qua cánh đồng phì nhiêu của Hồng Lĩnh, Can Lộc, Lộc Hà trước khi hòa vào biển cả.

Thuở tôi lớn lên, thủy triều lên xuống, nước sông xanh ngắt. Tôi còn nhớ, bao buổi chiều theo chúng bạn ra bờ sông, lúc thì ngụp lặn, bơi qua sông hái bần; lúc thì ngắm những đoàn thuyền xuôi ngược, đàn sứa dập dìu lúc thủy triều lên.

Tôi từng đọc tác phẩm và bộ phim cùng tên “Cánh buồm đỏ thắm”, nhớ như in một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Nga, Aleksandr Grin. Cánh buồm của những đoàn thuyền nan qua con sông quê tôi, không đỏ thắm, toàn màu nâu, thi thoảng ngư dân vá thêm những miếng màu trắng đục. Có điều tên của tác phẩm làm tôi nao nao nhớ dòng sông, nơi lưu giữ của tôi và chúng bạn cả khoảng trời ký ức.

Không chỉ cho con cá, con tôm, trở thành tuyến giao thông thủy từ xuôi lên ngược và ngược lại, sông còn là chứng tích của một “thời hoa lửa”. Nhà văn Đắc Túc từng có bút ký “Dòng sông bi hùng”, viết về dòng sông này.

“Ngày ra đi/ Ta rất trẻ và sông rất trẻ/ Vừa đi vừa bay, ta vẫn thấy mình sao chậm thế/ Còn sông thì thầm điềm tĩnh chảy giữa bờ ngô!” (Sông Nghèn gặp lại). Nhà thơ, Đại tá, TS. Lê Thành Nghị, người sinh ra và lớn lên cũng bên dòng sông Nghèn, từng có bài thơ giàu cảm xúc như vậy về dòng sông.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
“Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế/ Và nụ hoa trong cỏ tím dường kia!” (Ảnh minh họa: IT)

Rồi vì sự phát triển của quê hương, dòng sông ngưng chảy. Những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, sông Nghèn bị chặn lại ở Đò Điệm (huyện Lộc Là) để “ngọt hóa”, lấy nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Thời ấy, cả nước còn phải lo miếng ăn, bát cơm đầy còn là mơ ước. Thế nhưng, bắt đầu từ đó, biết bao nhiêu vấn đề sinh thái đặt ra, khi dòng sông trở thành ao tù, nước đọng.

“Bao giờ sông lại được khơi dòng?”, tôi từng đem câu hỏi này đặt lên bàn Bí thư Huyện ủy quê nhà. Anh nhận ra, đó là điều nên làm, để xanh lại dòng sông, khôi phục lại sinh thái vốn đã bị phá vỡ, nhưng rồi anh thở dài: “Khó lắm”.

Hóa ra, câu nói: “Chiến thắng chính mình là chiến thắng vinh quang nhất”, không cũ. “Mình” ở đây không phải là cá nhân, mà cả một tập thể, giữa thời cần “tư duy xanh”.

“Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế/ Và nụ hoa trong cỏ tím dường kia!” (Sông Nghèn gặp lại). Nhà thơ thường lãng mạn. “Hai bờ xanh”, “nụ hoa trong cỏ” mà nhà thơ Lê Thành Nghị nhìn thấy, có thể là trong hoài niệm hoặc mong chờ gặp lại.

***

Nhà tôi ở cạnh sông Tô Lịch, ngày nào tôi cũng đi qua đây. Thế nên tôi bị ám ảnh hơn những người dân Hà Nội khác sống xa dòng sông? Có bao nhiêu dòng sông đã chết? Rất nhiều. Các dòng sông như Nhuệ, Đáy, Cầu, Vu Gia, Thu Bồn, Đồng Nai, Sài Gòn… đều ô nhiễm nghiêm trọng, tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu.

Việt Nam ở vào vị trí đắc địa, thiên nhiên hào phóng ban tặng cho đất nước ta những tiềm năng, không dễ đất nước nào có được. Trong những tiềm năng ấy, có các hệ thống sông ngòi từ Bắc đến Nam. Sông trở thành một phần hồn vía của đất trời; người Việt hình thành và phát triển cùng các dòng sông; sông đi cùng lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha; sông là một phần văn hóa phi vật thể, hình thành nên văn hiến Việt Nam.

Thật vậy, hệ thống nước mặt của Việt Nam với hơn 2.360 con sông, suối dài hơn 10km và hàng nghìn hồ, ao. Hai bên các dòng sông người Việt quần cư, lập nên làng, nên xã từ bao đời nay. Lúa trên đồng, tôm, cá dưới nước. Đời người từ thế hệ này, đến thế hệ khác lớn lên bên dòng sông. Văn hóa Việt Nam khởi sinh từ dòng sông.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
Đời người từ thế hệ này, đến thế hệ khác lớn lên bên dòng sông. (Ảnh minh họa: IT)

Gần đây, tôi có dịp diện kiến nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản – TS. Tạ Quang Ngọc. Ông mừng vui vì kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản năm này cao hơn năm khác. Con cá, con tôm Việt Nam đã góp phần tạo nên thương hiệu “thủy sản Việt Nam”, có mặt chững chạc trên những thị trường khó tính nhất như Mỹ, Nhật, EU… và sẽ còn vươn xa nữa. Nhưng nhắc đến các dòng sông, khuôn mặt TS. Tạ Quang Ngọc đượm buồn. 

TS. Tạ Quang Ngọc kể cho tôi nghe câu chuyện đầy ẩn dụ. Rằng, ông Walt Disney, một người đưa thế giới đến cảm giác huyền ảo, nhưng lẽ sống ở đời lại là sự hiện thực và tính khả thi. Ông cho rằng người mơ mộng thì nhiều, nhưng những người biết biến giấc mơ thành hiện thực thì không có bao nhiêu. Rằng, ông Charlie Chaplin khiến thiên hạ ai cũng phải cười khi nhìn ông diễn, khi xem phim của ông, nhưng qua chuyện ông nói với con gái người ta mới biết, cuộc sống thật thì ông khóc nhiều hơn cười.

TS. Tạ Quang Ngọc, từ lâu đã đưa ra quan điểm phải hài hòa tất cả các lợi ích; không thể hủy hoại môi trường để sống bằng mọi giá, nhưng cũng không thể nhịn đói nhìn môi trường trong sạch. Vì thế, ông ủng hộ quan điểm phát triển xanh lam (blue).

***

Vì yêu dòng sông, tôi đã đọc khá nhiều thơ về dòng sông của nhiều tác giả, sáng tác thơ về dòng sông; tuy nhiên khi đọc “Trần Mạnh Hảo – Tuyển tập thơ” (NXB Hội Nhà văn, 2022) – được coi là cuốn sách bán chạy nhất năm 2022, bản thân có những cảm xúc đặc biệt. Hóa ra, ngoài “Sông Lam” đã trở thành thi phẩm được ngưỡng mộ ngay từ khi xuất bản (năm 1983), Trần Mạnh Hảo còn sáng tác về nhiều dòng sông khác.

Đó là, “Những dòng sông miền Trung”, “Sông Mã hồn lìa khỏi xác”, “Sông Hương”, “Những dòng sông Nam Bộ”, “Lời Trưng Nữ vương trước khi tuẫn tiết dưới dòng sông Hát”, “Nhớ con rạm sông Ninh Cơ”, “Rét cóng mẹ vẫn xuống sông mò Tết”, “Con rạm, con hến nuôi anh”…

Hẳn nhiên, Trần Mạnh Hảo là nhà thơ của những cảm xúc đầm đìa tư tưởng, nên những dòng sông trong thơ ông, chở đầy tư tưởng, óng ánh vẻ đẹp tư tưởng. Chỉ cần đọc qua tên các thi phẩm đã đoán định được, trái tim nhà thơ đau đáu về dòng chảy lịch sử trong dòng chảy của sông.

Tất cả mọi dòng sông đều chảy, đó là hiện thực, đồng thời cũng là tên một tiểu thuyết của nữ tác giả Australia, Nancy Cato và bộ phim trữ tình cùng tên “Tất cả các dòng sông đều chảy”. Sự quan sát các dòng sông của nhà thơ Trần Mạnh Hảo khá tinh tế, làm cho “Những dòng sông Nam Bộ” khác hẳn “Những dòng sông miền Trung”.

“… Những dòng sông như người chạy bộ/ Cứ đuổi theo bóng dáng chân trời/ Sông khỏe quá chạy hoài thành châu thổ/ Chạy qua rồi sông để lại lúa khoai/ Để lại lâu đài ruộng nương nhà cửa/ Chỉ mang trời nhập với biển khơi” (Những dòng sông Nam Bộ).

Đẹp đến như thế, hùng vĩ như thế, nhưng sông Tiền, sông Hậu, hay nói chung nhất là hệ thống sông đồng bằng Cửu Long cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ mới của thiên tai (biến đổi khí hậu) và nhân tai (ngăn sông làm thủy điện, khai thác dòng sông đến thô bạo của con người). Năm qua lũ ít về, đó là nguy cơ, là nỗi lo hiện lên trên mỗi khuôn mặt khắc khổ của người nông dân bản địa.

Ta nhận ra hai bờ xanh đến thế
Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy… (Ảnh minh họa: IT)

Chưa bao giờ, đa dạng sinh học, phát triển bền vững trong cân bằng sinh thái đặt ra cấp bách như bây giờ. Chưa bao giờ phát triển xanh, trong hệ sinh thái xanh… được nói đến nhiều như bây giờ. Muốn có đô thị xanh, nông thôn xanh, phải có tài chính xanh… nỗ lực xanh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế.

Ngày càng có nhiều nguy cơ đối với an ninh phi truyền thống. Nó ngày càng hiện hữu, Covid-19 xuất hiện trong 3 năm qua, dẫu dần qua, nhưng tiếp tục cảnh tỉnh loài người.

Bất giác tôi lại nhớ bài hát “Con kênh xanh xanh” của Hoài Nam và Thanh Phương. “Con kênh xanh xanh những chiều êm ả nước trôi/ Đêm đêm trăng lên theo dòng buồm căng gió xuôi/ Con kênh xanh xanh những mùa sen nở khắp nơi/ Bao câu tơ duyên dạt dào tim ai thắm tươi”, ca từ thật tươi xanh.

Tôi đã từng đầm mình trên dòng sông Nghèn quê hương, uống nước trên những dòng kênh xanh, những ngày đi học. Và tôi ao ước, bao giờ dòng sông quê tôi lại chảy, lại được ngắm nhìn những đoàn thuyền trẩy hội. “Ôi nghìn năm trước ta/ Và một nghìn năm tới/ Sông vẫn thì thầm điềm tĩnh chảy giữa bờ ngô” (Sông Nghèn gặp lại, thơ Lê Thành Nghị)./.

]]>
Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu https://trithucdoanhnhan.net/chieu-chieu-chua-co-tham-reu/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:10 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2638

Leo núi Bổ, đi chùa Bổ, rồi đi chợ Nếnh không xa, bạn hãy trở về sông Cầu để đến với làng gốm Thổ Hà, đến làng Vạn Vân nấu rượu, để thời gian trôi và lãng mạn với chính mình.

Bắc Giang nổi tiếng với ngôi chùa cổ Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, nơi có hồ Khuôn Thần, có tu hú kêu vào mùa vải chín, nơi có thể lãng mạn với rêu phong ở những ngôi chùa cổ kính nước Việt, nơi thật tĩnh lặng của kinh thư Phật pháp… khi bạn ngồi đọc sách trong phòng, nhìn phía ngoài là bờ tường rào bằng đất thó phủ rêu xanh mờ, tịch u để trôi về xưa cũ. Bạn có thể lãng mạn với chính mình khi đi qua dòng sông Cầu.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Đường vào chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Rồi từ sông hãy lên núi Bổ. Núi Bổ gần chùa Bổ Đà, huyền thoại ngôi chùa Bổ Đà ngàn năm trước từng có một vị tiều phu hằng ngày chỉ vác củi và lầm lũi bổ củi để sống. Lão tiều phu này mơ uớc có tiền và nếu có nhiều tiền thì chỉ mong đủ xây một ngôi chùa trên núi. Rồi đức Phật đã cho vị tiều phu này ba mươi hai đồng tiền vàng và từ đó vị tiều phu đã xây được ngôi chùa này. Đến chùa Bổ, bạn sẽ chạm mắt ngay vào cột cây số không – chùa Bổ Đà.

Từ đây, lòng ta có thể vịn vào cổ kính rêu phong mà đi. Một vòm ngói cũ, lá tre khô đã hoang hoải màu thời gian cùng hai bờ tường thẫm rêu. Nào ta cùng vịn vào rêu mà đi thăm chùa chính, rồi leo cầu thang gỗ ọp ẹp lên mấy cây cau lùn hái cau, hái trầu mà ăn. Ba cái bể nước mưa cũng thẫm xanh rêu và nước mưa trong vắt. Lối cũ ta về, đi vào chùa như đi vào một thư viện. Lần giở xem kinh Phật viết bằng chữ Hán trên gỗ thị đã có độ dài xa lắc xa lơ, đã gần ba trăm năm.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Giếng nước chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Cách đây mấy năm, khi còn sống, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mỗi khi viết tiểu thuyết thấy mệt lại thường lên đây, nhìn sách kinh của người xưa, ông hay nghĩ ngợi về nhân vật và liên tưởng đến ngôi chùa Đậu ở mạn Thường Tín, Hà Nội. Chùa Đậu nước ta, ghi dấu hai vị thiền sư Vũ Khắc Trường, Vũ Khắc Minh tọa thiền rồi đi vào cõi niết bàn, điều này ắt chỉ có duy nhất ở Việt Nam mà thôi, thế giới không đâu có. Ông đã trò chuyện với tôi như vậy. Và kinh Phật khắc trên gỗ thị cũng chỉ có ở chùa Bổ Đà, khách đi vãn chùa có thể ngồi đọc sách, đọc kinh kệ trong thư viện Phật giáo.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Một góc nhà nơi chùa Bổ. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Nơi sân sau chùa là vườn tháp cổ, rộng mênh mông. Những lũy tre phủ xanh tầm mắt, khói bay mãi không quang. Có lẽ từ Hà Nội lên chùa Bổ nhìn khói nhạt nhòa sau lũy tre là thích nhất. Không thấy một vệt bê tông nào, ngoài bờ xôi, ruộng mật, đất thịt của ông bà ta xưa, còn có rặng tre xanh. Có một nữ chuyên viên văn hóa ở đại sứ quán Pháp đã tìm lên đây, đã nhảy tung cao người bên lũy tre và hát lên rằng: “Xanh xanh quá là xanh”. Đúng là ở đây không có bê tông hóa, chỉ ngắm nhìn tháp cổ, chùa cổ, chuông cổ, rêu phong sẫm chiều. Rêu phong sẫm chiều trên tường đất thó rất dày và rêu phong chồng lên rêu phong. Nhìn rêu, hồn tôi như chùng xuống sau nhiều năm đi qua gió giông còn dằng dịt vết thương lòng.

Cả một vườn tre kẽo kẹt trong trưa, cả một vườn hoa dại nở lặng thầm trong vườn sân sau chùa không ai nhìn ngắm. Đến sách kinh điển và sách kinh Phật cũng khuất lấp trong mái ngói ta, phủ lá tre già, nào có ai lần giở đọc? Ngoại trừ nhà sư, pháp sư, nhà văn hóa, nghiên cứu, nhà văn lên đây lần giở đọc. Ngồi ở sân chùa, nơi vườn tháp cổ, tôi tự hỏi: “Sau dịch, đã có bao nhiêu tro bụi ngàn thu? Có thể nào tính nổi bao nhiêu ngàn tro bụi mồ côi?”.

Là tôi chợt nhớ một buổi chiều, ghé rạp ở số 191 Bà Triệu, xem phim “Tro tàn rực rỡ”. Cả phòng chiếu chỉ có mỗi một mình tôi xem phim, chiếu được 10 phút sau mới có thêm hai bạn trẻ. Phim thật hay, được trao giải quốc tế, phim sông nước trôi về thân phận, sự cô độc của người miền Tây, vậy mà người soát vé nói rằng: “Ít người xem phim này, vì tuổi trẻ lại thích phim hành động”… Cái còn lại của phim, sau lửa cháy phận người là tro tàn.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Một cảnh dựng phim ở chùa Bổ Đà. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Ở Sài Gòn hai năm chống dịch, có bao nhiêu phận thành tro tàn mồ côi? Mới có năm ngoái, dịch bệnh chưa lùi xa, vẫn còn ám ảnh trong giấc ngủ, vẫn còn những người đang điều trị trầm cảm, sao thời gian đã lãng quên nhanh vậy? Mới một năm thôi, nhiều đám cưới bạc tỷ được phơi lên “phây” tung hô, nào ai đoán định sớm được bến bờ của hạnh phúc ngày mai sẽ ra sao? Vì đường đời vốn ngắn lắm và cũng còn dài lắm. Các cụ xưa đã từng dạy: “Không ai cầm tay từ tối đến sáng”. Và nhất là thời 4.0. Người đời sống tốc độ, ăn nhanh, đi nhanh, làm nhanh. Ngay cả vỉa hè Hà Nội, gạch lát đá thi công nhanh hàng trăm tỷ, chỉ chưa đầy năm đã nứt toác, vỡ rạn. Có vỉa hè thay tới vài ba lần vẫn vênh váo và vỡ. Lại thấy đi trên nền đất bờ xôi ruộng mật của ông bà ta xưa mà thấy con người hiền hòa, không xâm lấn đất, không đè nặng đất.

Thích nhất là ở đây đi lễ hội chùa Bổ Đà, còn các bạn trẻ sau lễ hội có thể đi thêm hai cây số nữa để đến chợ Nếnh ăn quà quê, đi picnic leo lên chùa Khám, leo lên ngọn Trúc Lát, ngọn Bàn Cờ Tiên hay thăm làng Thượng Lát Tiên Sơn, rẽ qua Thổ Hà mua gốm. Câu ca xưa hắt lên:

“Trời mưa cho ướt lá khoai

Đố ai lấy được con trai Thổ Hà”.

Hãy thử làm thợ gốm một ngày, ở làng gốm vùng châu thổ sông Hồng khác với gốm Bàu Trúc ở Ninh Thuận ra sao? Và hãy cúi xuống với người chuyên làm gốm tiểu sành. Tiểu sành được nâng niu dưới tay người thợ gốm Thổ Hà. Họ nói: “Đó là nơi đến cõi, nơi ta về với tiểu!”. Ngôi nhà cuối cùng của đời người sau nhiều năm “quăng quật” chỉ về với tiểu sành. Dân nhà quê nghĩ thế. Chứ thời công nghệ, người ở phố chỉ có hai giờ đồng hồ là thành một lọ tro mà thôi.

Đây là vệt làng quê của vùng Bắc Giang, nhưng đi qua nhiều làng văn hóa Kinh Bắc, còn thẫm câu quan họ ngày xuân, còn thấy yếm thắm, trầu xanh mời khách. Còn “người về em dặn người rằng”… níu mãi bước chân. Dặn người hãy một lần ghé thăm chùa Vĩnh Nghiêm, mái cong và vắng lặng. Mấy sư cô đang tụng niệm ở gian chính Tam Bảo. Phía hiên chùa, những bà cụ già làng quê đang chuẩn bị dâng lễ. Nếp quê xưa, lòng thành hương hoa mà vẫn đẫm sự tôn kính.

Chiều chiều chùa cổ thẫm rêu
Góc chùa Vĩnh Nghiêm. (Ảnh: Hoàng Việt Hằng)

Chùa Vĩnh Nghiêm có dãy hàng cau, quả đã chín không có người hái và sư cô nói cau đợi chín rục mới đi nhân giống để có cây non. Bọn trẻ, học sinh trung học có chiều ghé sân chùa học bài. Ở đó không có còi ô tô, xe máy. Một không gian thiên đường để đọc sách và học tập. Rời ngôi chùa cổ kính, bạn có thể rong ruổi đến với chợ Nếnh trong trưa để ăn bún bánh đúc riêu cua. Thưởng thức quà quê, kẹo bột, uống trà xanh và nước vối, chợ quê trăm phần trăm. Cơm quê có trám xanh, trám đen muối kho thịt. Hương hoa cau và hoa ổi muộn cũng chan vào. Và để thưởng thức sự tĩnh lặng, bạn nên đi vào ngày thường, ngày se lạnh càng vắng.

Xem kinh Phật trong chùa đâu cần nắng rực rỡ, ngắm ngọn Phượng Hoàng cũng đâu cần phải có mây bay. Leo núi Bổ, đi chùa Bổ, rồi đi chợ Nếnh không xa, bạn hãy trở về sông Cầu để đến với làng gốm Thổ Hà, đến làng Vạn Vân nấu rượu, để thời gian trôi và lãng mạn với chính mình./.

]]>
Đường sáng mùa xuân https://trithucdoanhnhan.net/duong-sang-mua-xuan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3312

Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc.

Mùa xuân của đất nước gắn liền với một dấu mốc quan trọng đó chính là ngày thành lập Đảng (3/2/1930) mà một nhạc sỹ đã ví “Đảng đã cho ta cả một mùa xuân”. Mùa xuân về hoa đào đỏ thắm hoa mai vàng tươi, hai màu hoa tượng trưng cho sắc màu tết cổ truyền dân tộc. Và 2 màu đỏ và vàng cũng chính là màu cờ đỏ, sao vàng của lá cờ tổ quốc. Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Đó cũng chính là con đường sáng mùa xuân phát huy sức mạnh tiềm tàng của cả 4.000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Rực rỡ nhất , tươi sang nhất và hào hùng nhất là thời đại Hồ Chí Minh đã kết tinh những tinh hoa tốt đẹp, bồi đắp thêm và phát huy cao độ bền vững làm bệ phóng cho một tương lai huy hoàng của đất nước

Sinh thời cứ mỗi mùa xuân đến Bác Hồ kính yêu lại có thơ chúc tết quân và dân cả nước. Mỗi áng thơ xuân đều có tính dự báo với tầm nhìn chiến lược sâu sắc mang một ý nghĩa lớn lao. Cách đây 60 năm (Năm Quý Mão 1963) lúc cả nước ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống  Mỹ ác liệt, lời thơ chúc tết của Bác ngắn gọn nhưng toát lên một khí thế mới: “Mừng năm mới – Cố gắng mới – Tiến Bộ mới – Chúc Quý Mão là năm nhiều thắng lợi…”. Ba chữ “mới” liên tục như một điệp khúc reo vang niềm lạc quan với thế chủ động và tự tin biết bao. 

Đường sáng mùa xuân
Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Ảnh: Internet

Năm nay, 2023 tinh thần ấy, dự cảm ấy của Bác Hồ kính yêu dù người đã đi xa vẫn còn vẹn nguyên. Mùa xuân biểu tượng cho một vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ, dạt dào sức sống mới không chỉ thiên nhiên rạo rực mà cả lòng người hân hoan, cây cối đâm chồi nảy lộc, lòng người phấn khởi, dựng xây đất nước, bảo vệ tổ quốc vững chắc, mang lại những giá trị mới khơi dậy ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.

Điểm lại các hoạt động chính trị xã hội trong năm 2022 có thể nhận thấy cụm từ “Khơi dậy khát vọng phát triển” được nhắc đến rất nhiều trong các văn kiện, nghị quyết. Chủ đề đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước. Phải khẳng định rằng trong bối cảnh hiện nay như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” thì đây là khát vọng chính đáng của cả dân tộc ta khi hai tiếng Việt Nam vang lên trên các diễn đàn quốc tế với bao niềm tin cậy và có đủ cơ sở tin cậy hợp tác phát triển. Khát vọng có nghĩa là mong muốn làm được, đạt được những điều lớn lao tốt đẹp cho bản thân, cho cộng đồng, rộng hơn là cho cả quê hương đất nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của mình, Hồ Chí Minh luôn khát vọng đất nước phồn vinh dân tộc hạnh phúc. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ luôn mang một khát vọng lớn lao: “Tôi chỉ có một ham muối, ham muối tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho đến lúc trước khi đi xa, Di chúc của Người cũng để lại một khát vọng tột bậc đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới”. 

Năm 2022 là một năm quan trọng, năm thứ 2 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, năm khẳng định những nổ lực vươn lên của đất nước và dân tộc ta sau những khó khăn thách thức vừa đi qua đại dịch Covid-19, năm thể hiện sức mạnh nội sinh to lớn của đất nước của từng người dân đất Việt, năm mà có sức mạnh tiềm tàng “mãnh hổ” (năm Nhâm Dần) sức mạnh đó là sự tổng hợp nhiều yếu tố trong đó có mạch nguồn văn hóa của dân tộc. Văn hóa gắn liền với hưởng thụ và hạnh phúc của nhân dân. Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hóa dân tộc được kế thừa bảo tồn và phát triển xây dựng con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Con người Việt Nam mang trong mình bản sắc văn hóa Việt Nam như nhà thơ Huy Cận đã tạc tượng đài ngợi ca:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà”.

Con người Việt Nam trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, các thế lực phong kiến Trung Hoa luôn tìm cách Hán hóa dân tộc Việt Nam. Song với sức mạnh của niềm tin và nòi giống “con Rồng, cháu Tiên” cộng đồng cư dân Việt đã kiên trì bền vững đấu tranh để giữ lấy “hồn quốc”. Đó là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam – Triệu Thị Trinh với câu nói đầy hào khí: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ…” như là một minh chứng cho tinh thần bất khuất và khát vọng độc lập dân tộc.  

Dưới thời Lê, Lê Lợi và Nguyễn Trãi được quân dân một lòng tin tưởng đồng lòng đi theo bởi tinh thần “Việc nhân nghĩa cốt ở  yên dân” và ý chí kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (Vua Quang Trung) phất cờ khởi nghĩa với khí thế quyết tâm: “Đánh cho để dài tóc – Đánh cho để đen răng” giữ lấy mạch nguồn hồn cốt khí phách ngàn đời truyền thống, tập quán, tập tục dân tộc.

Đường sáng mùa xuân
Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Ảnh: Internet

Và sau này đến thời đại Hồ Chí Minh, Bác Hồ kính yêu đã kế thừa và đúc kết phát huy cao độ ý chí tự lực: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta” và “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tinh thần khát vọng ấy càng được bồi đắp, càng được phát triển, càng được tôn vinh, càng được khơi dậy không chỉ trong mạch nguồn văn hóa truyền thống mà kể cả trong cả lĩnh vực xây dựng kinh tế, xã hội bảo vệ trọn vẹn chủ quyền tổ quốc thân yêu của chúng ta. Khát vọng dân tộc có một vai trò rất quan trọng, nó là động lực trọng tâm tạo nên sức mạnh vô song. Khát vọng dân tộc nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối và chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động cho toàn bộ quá trình phát triển. Khát vọng dân tộc thể hiện nhu cầu ước vọng của nhân dân trong suốt chiều dài và tiến trình lịch sử của đất nước.  

Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Tiềm năng của mùa xuân là trữ lượng tiềm ẩn, qua một mùa đông giá buốt bao sức sống, sự sống âm thầm tích nhụy, hút nhựa của phù sa đất đai làng mạc, phù sa của khí trời mát mẻ, thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Những trữ lượng ấy đã đâm chồi nảy lộc thiết tha, đã bừng sáng nhạy bén rạng rỡ, đã vươn thẳng, vươn cao lan tỏa một sức sống kỳ diệu, cộng hưởng với lòng người phơi phới. Đó là mối giao cảm, đồng cảm, mối liên kết của tình bao dung nhân ái.

Đường sáng mùa xuân
Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Ảnh: Internet

Có thể nói trong những lúc khó khăn nhất đứng trước bao thử thách cam go nhất thì tình nghĩa đồng bào càng thắm thiết biết bao. Nhất là khi trải qua đại dịch Covid-19, trải qua bao cơn bão lũ lụt của thiên nhiên tràn vào dải đất thân yêu đất nước thì “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Có lẽ cái chữ “thương” tụ hội, sẻ chia, cảm thông, từ bầu sữa ca dao ngọt ngào: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” nuôi lớn những tâm hồn cao cả để rèn những ý chí kiên cường. Cội nguồn truyền thống sâu xa ấy chính là điểm tựa là bệ phóng cho khối đoàn kết dân tộc có một hệ giá trị mới, một năng lượng mới, một tinh thần mới đó là: Khát vọng phát triển!

Đường sáng mùa xuân bắt đầu từ một “Nông thôn mới”. Cũng lũy tre, ngõ xóm ấy, cũng lối chợ họp sớm hôm, cũng láng giềng khi “tối lửa tắt đèn” nhưng gương mặt nông thôn đã bừng lên đã sáng lên đã chan hoà đã kích hoạt bao cảm hứng về một nội lực mới trong lòng mỗi người, trong mỗi xóm thôn với “điện, đường, trường, trạm” không chỉ là mô hình đồng nhất phát triển mà còn là nguyện vọng khát khao hiện thực đổi mới trong cách thức kiến trúc lại một đời sống mới, chất lượng sống mới cao hơn, toàn diện hơn. Con đường sáng mùa xuân đã được mở ra những đại lộ không chỉ là đường cao tốc giao thông mà còn có những đại lộ mới, cao tốc mới sức phát triển mới trong tầm nhìn định hướng của mỗi người của mỗi nhà, mỗi xóm thôn làng bản nâng lên một tầm cao mới. Khát vọng phát triển lan rộng và tỏa sáng đến với những vùng cao miền núi xa xôi hẻo lánh. Những ngày hội truyền thống mang bản sắc dân tộc, ngày hội “tết độc lập” với bao sắc màu sắc áo thổ cẩm đan cài ríu rít tưng bừng trong những điệu múa sạp và gần đây điệu múa xòe Thái đã được tổ chức văn hóa thế giới Unesco vinh danh. Có một biên giới vững chắc, có một biên cương vững chãi không chỉ ở cương vực đất đai sông núi tổ quốc mà ở ngay trong thành trì của lòng người, tình người. Đó chính là những cột mốc bền bỉ và bền vững.

Đường sáng mùa xuân tỏa đến biên cương, hải đảo. Những dấu chân bấm vào rêu đá núi tai mèo, đèo sương phủ. Chặng đường tuần tra biên giới của các anh chập chùng bao hiểm nguy rình rập. Nhưng màu áo xanh biên phòng vẫn bền bỉ màu  rừng đậm đà thân thuộc. Những chấm lửa heo hút gió đến với các bản làng đánh thức con chữ cho bữa cơm thêm thịt, cho tấm chăn thêm bông. Tôi gặp nơi biên cương những chóp núi mang hình cánh buồm lại nhớ đến những người lính ngoài đảo khơi xa xôi  với “Những nhà giàn như tán cây bằng thép – Bốn mùa tươi không thể héo lá cờ” .

Đường sáng mùa xuân
 Vững vàng nơi đầu sóng. Ảnh: Internet

Sáng xuân này khi trên biên giới hoa mơ, hoa mận nở trắng xóa tinh khiết và trong trẻo thì ở ngoài đảo khơi xa sóng gió biển khơi, những trái bàng vuông đã bắt đầu lặng lẽ tụ quả bên chiến hào của các chiến sỹ canh phòng giữ đảo. Thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành, thiên nhiên là hình bóng đất mẹ thân thương, thiên nhiên là một phần hình hài đất nước thật gần gũi  biết bao. Thiên nhiên đã khơi dậy mối đồng cảm gắn bó với đất đai, con người khi cây cối ra hoa kết trái phát triển theo quy luật  tự nhiên. Đó cũng chính là động lực để thôi thúc phát huy cao độ sức mạnh tiềm ẩn của con người bằng ý chí nghị lực, bằng tri thức khoa học sáng tạo, bằng tình cảm chan chứa thiết tha với tình làng nghĩa nước. Các công trường xưởng máy reo vang nhịp điệu hăng say lao động với ánh lửa hàn chấp chới như sao sa, như chùm pháo hoa ngày hội. Các đường băng mở rộng cho những cánh bay đến với mọi miền tổ quốc và bạn bè quốc tế. Đó chính là nhịp điệu của mùa xuân, sức xuân, sức sống mới. Và trong những giây phút thiêng liêng chuẩn bị đón mừng năm mới ta như được nghe vọng lại lời chúc tết của Bác Hồ kính yêu bởi tiếng Người là tiếng vọng của non sông: “Bác Hồ gọi ấy là mùa xuân đến”. 

]]>
Còn quê hương thì làm phong tục https://trithucdoanhnhan.net/con-que-huong-thi-lam-phong-tuc/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3323

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự.

Tôi là người Kinh, nhưng anh em bạn bè gốc gác các dân tộc thiểu số mạn Tây Bắc, Việt Bắc. Thời khó khăn, sau khi nghỉ Tết, có lần tôi và Hoàng Đình Thắng (người Tày) ra Bến Nứa xếp hàng lấy vé xe ngược Tuyên Quang (hồi ấy còn là Hà Tuyên). Cũng xin nói thêm, trên đất cũ của Bến Nứa nay là một bến xe bus ngoài trời của vận tải công cộng Hà Nội, mạn gần cầu Long Biên.

Mua vé đã khó, xe chật như nêm, hành trình dọc quốc lộ 2 thật gian nan. Như bây giờ lên Tuyên chắc chỉ 1 tiếng rưỡi gì đó. Ngày đó “đi dọc câu hò”. Khá bền bỉ, né tránh thanh niên “đen đỏ”, chơi xóc dĩa trên xe, mới về đến Sơn Dương quê bạn.

Mồng 3 Tết, bạn rủ đi chơi trò “Ném còn”. Hồi đó, tôi chỉ nghĩ là trò chơi dân gian của cộng đồng dân tộc Tày. Hóa ra, không gian văn hóa của các dân tộc Thái, Tày, Mường, Nùng đều có ném còn. Nó có nguồn gốc từ rất lâu đời.

Tuyên Quang cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc, ra Tết nhiều đợt gió mùa lạnh sâu. Sau khi ăn sáng, chè cháo mãi, hai anh em quây quần bên bếp củi đặt giữa nhà cùng mẹ Hoàng Đình Thắng và mấy đứa em. Bà có tên con gái hẳn hoi, nhưng khi Hoàng Đình Thắng sinh ra thì bà “mất tên”. Người Tày cũng giống như nhiều vùng quê nông thôn miền Trung, sau khi đứa con đầu lòng ra đời thì tên con trở thành tên bố mẹ. 

Đứa con ra đời đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời sống vợ chồng, bên cạnh niềm hạnh phúc đó còn là trách nhiệm lớn lao, nuôi dạy con cái nên người. Vì vậy người Tày thường lấy tên con đầu để gọi tên cho cha mẹ, cách gọi thân mật đó là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.

Ngồi một cữ than nồng Hoàng Đình Thắng xin phép mế đưa tôi ra bãi đất, nơi bà con xã Hồng Lạc tổ chức vui xuân, ném còn. Khi hai anh em ra thì đã nô nức. Tôi như lạc vào giữa vườn hoa sắc tộc. Công nhận y phục của phụ nữ các dân tộc thật bản sắc, mê dụ. Không như người Kinh, phụ nữ ngoài y phục áo dài chung cho cả cộng đồng người Việt thì không còn gì, tất cả là “đồ Tây”.

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Ảnh: Internet

Hoàng Đình Thắng kể rằng: “Trong quan niệm của người Tày, quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Chính vì vậy, quả còn bao giờ cũng làm bằng vải màu đỏ, màu đen, màu xanh và màu trắng”. 

Phụ nữ các dân tộc Tây Bắc, thường làm quả còn bằng những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Dây còn cũng được khâu bằng vải, dài độ nửa sải tay, một đầu đính vào điểm tâm giao của hình vuông quả còn. Tua còn được cắt bằng vải vụn, đủ màu sắc, sau đó đính vào 4 góc quả còn và đính so le điểm trên dây còn, tạo thành biểu tượng như hình con rồng bay. Tiếng dân tộc Tày gọi là “con cuống”, mang niềm tin gửi gắm nơi con rồng đem lại sự phồn thịnh, hạnh phúc. Thường quả còn chỉ có khoảng 4 – 8 múi, nhưng với người khéo tay, họ có thể may quả còn với 12 múi gồm 12 màu. Mỗi quả còn, trong ngày hội khi tung lên mang theo niềm vui và may mắn cho người chơi.

Và rồi Hoàng Đình Thắng, đưa tôi vào trò chơi. Anh bảo: “Ta chơi với hội theo tục tỏ tình, giao duyên”. Tôi và Hoàng Đình Thắng đứng một bên, hai bạn nữ đứng một bên. “Nào ném”, anh ấn vòa tay tôi quả còn và nhắc. Trời à, đây là cách tung còn “đại trà”. Tất nhiên hai anh em chỉ tung một lúc, trả còn lại cho trái gái sở tại và đứng xem. “Bạn biết không, tung còn của giữa nam và nữ cũng là cách tìm bạn gái đấy. Đôi nào phải lòng nhau tự khắc ném cho nhau. Thông qua hội tung còn nhiều đôi trở thành chồng, thành vợ của nhau”. 

Với người Mường, cũng y chang người Thái. Hội ném còn là dịp để nam thanh nữ tú gặp nhau, là bà mối để se duyên. Bên nào thua sẽ phải để lại một vật làm tin, thường người thua sẽ là các chàng trai. Sau lễ hội, chàng trai sẽ quay lại nhà cô gái để xin lại vật đã gửi lại làm tin, là cái cớ để hai người gặp gỡ, tìm hiểu tiếp.

Tất nhiên, lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế, trai bản biết hết nhau, anh chị nào thích nhau, tìm hiểu nhau đã từ trước. Ngày xuân chỉ là lúc họ giao lưu, vui xuân cùng bạn bè. 

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn được làm từ những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Ảnh: Internet

Cách thứ hai, được Hoàng Đình Thắng chỉ vào phía sau hai anh em, giải thích, gọi là “tọt con vong” nghĩa là tung còn vòng. Ở giữa sân bãi này, trưởng bản cho chôn một cây tre, cao chừng 10m, đầu trên cao có gắn một cái vòng tròn đường kính khoảng 50 – 70cm theo phương thẳng đứng. Vòng tròn được gắn vải đỏ, xanh… phần trên khâu chắc vào mép, ở dưới thả buông để khi ai đó tung trúng vào trong vòng còn dễ phát hiện ra. Quả còn sẽ được tung lên cao nhằm hướng vòng còn trên đỉnh cột, quả còn vút qua ngọn cột tre, những dây tua ngũ sắc cũng lướt xòe ra với màu sắc rực rỡ trông thật đẹp đẹp mắt.Trò chơi này giành cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, có gia đình hay chưa đều chơi.

– “Tung vài quả, mỏi tay phết?””, tôi nói với Hoàng Đình Thắng.

– “Thì thể thao mà. Có thể thao nào không đòi hỏi sức khỏe và sự khéo léo”, Hoàng Đình Thắng mỉm cười.

Như vậy, ném còn vừa mang tính văn hóa lại vừa mang tính thể thao, rèn luyện sự tinh tế, khéo léo khi tung, khi bắt. Trò chơi cũng là sự kết hợp các động tác toàn thân, vừa sảng khoái tinh thần, vừa được giao lưu, tỏ tình, đoàn kết, vui vẻ. Cả sân bãi, vốn là nơi bọn trẻ trả trâu chăn bò, tiếng trống, chiêng và hò reo dậy lên như sấm. Vui không thể nào nói hết.

Ngoài ý nghĩa tương đồng, với người Tày, trò chơi ném còn mang ý nghĩa cầu mùa. Trước khi khép hội, thầy mo sẽ rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ. 

Sau này được đi đủ mọi “xó xỉnh” của Tây Bắc, được anh bạn khác là Vi Văn Long “xe duyên”, tôi được nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái, Lò Văn Ín ở Điện Biên cho biết: “Ném còn là biểu tượng cho âm dương hòa hợp. Quả còn trong quan niệm của người Thái tượng trưng cho dương, còn vòng tròn dán giấy đỏ trên cây tre tượng trưng cho âm. Người Thái chơi ném còn thể hiện âm – dương hòa hợp và mang ý nghĩa phồn thực. Chính vì thế, những gia đình hiếm muộn con cái thì người phụ nữ rất hào hứng tham gia ném còn để cầu tự”. 

Theo truyền thuyết của người Thái ở Điện Biên thì ngày xưa, nhân năm được mùa, mưa thuận gió hòa, vua Hùng đóng đô ở Phú Thọ đã mời các bộ tộc, bộ lạc về tổ chức lễ hội. Các tộc người như Mường, Kinh, cùng các bộ lạc như Lạc Việt, Nam Việt… về đông đủ dự hội. Chỉ riêng người Thái ở Tây Bắc về có hai người. Vua Hùng buồn rầu bảo rằng, người Thái sống trên núi, ít người, đất rộng, Vua liền ban cho người Thái trò chơi ném còn để con người nhanh chóng sinh sôi, phát triển. Cũng từ đó, trò ném còn được người Thái chơi từ ngày này sang tháng khác, trong các lễ hội của cộng đồng.

Người Thái có một niềm tin chắc nịch, trò chơi Vua Hùng ban cho rất linh thiêng. Kể từ đó, người Thái đã sinh sôi phát triển trở thành tộc người có dân số lớn nhất vùng Tây Bắc. Tức là về mặt tâm linh, ném còn không chỉ là trò chơi dân gian, thể thao cộng đồng, mà còn mang ý nghĩa tốt tươi, nảy nở. Không chỉ thế, còn tung lên mang ý nghĩa tượng trưng cho những buồn đau và mọi việc xấu sẽ được rũ sạch, thay vào đó là sự ấm no, hạnh phúc. Nếu ném trúng vòng tròn cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. 

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự. Quả còn ném thường hướng về đầu nguồn sông, hay suối chính là hướng về các bản làng người Thái.

Còn quê hương thì làm phong tục
Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Ảnh: Internet

Có câu chuyện này, tôi muốn nói thêm, đã từng được dự nhiều bữa cơm cùng với gia đình hai người bạn Hoàng Đình Thắng và Vi Văn Long, tôi cứ suy nghĩ mãi về giao tiếp. Khi Hoàng Đình Thắng hay Vi Văn Long về đến nhà, rặt nói tiếng dân tộc mình. Chỉ khi hai anh hoặc có người trong nhà hỏi han tôi, mới dùng đến “quốc ngữ”. Ý thức giữ bản sắc từ tiếng nói, trang phục của các cộng đồng dân tộc là điều đáng phải suy nghĩ. Điều này, không như người Kinh. Và, tôi nhớ bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”. 

Ngôi nhà ông ở Hà Nội là không gian Tày gần gũi. Phu nhân nhà thơ vừa địu con trên lưng vừa thổi cơm, lẩm nhẩm thơ chồng:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Ông tên thật là Hứa Vĩnh Sước, người Tày ở Trùng Khánh, Cao Bằng./.

]]>