tết quý mão 2023 – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:56:51 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg tết quý mão 2023 – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Đường sáng mùa xuân https://trithucdoanhnhan.net/duong-sang-mua-xuan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3312

Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc.

Mùa xuân của đất nước gắn liền với một dấu mốc quan trọng đó chính là ngày thành lập Đảng (3/2/1930) mà một nhạc sỹ đã ví “Đảng đã cho ta cả một mùa xuân”. Mùa xuân về hoa đào đỏ thắm hoa mai vàng tươi, hai màu hoa tượng trưng cho sắc màu tết cổ truyền dân tộc. Và 2 màu đỏ và vàng cũng chính là màu cờ đỏ, sao vàng của lá cờ tổ quốc. Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Đó cũng chính là con đường sáng mùa xuân phát huy sức mạnh tiềm tàng của cả 4.000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Rực rỡ nhất , tươi sang nhất và hào hùng nhất là thời đại Hồ Chí Minh đã kết tinh những tinh hoa tốt đẹp, bồi đắp thêm và phát huy cao độ bền vững làm bệ phóng cho một tương lai huy hoàng của đất nước

Sinh thời cứ mỗi mùa xuân đến Bác Hồ kính yêu lại có thơ chúc tết quân và dân cả nước. Mỗi áng thơ xuân đều có tính dự báo với tầm nhìn chiến lược sâu sắc mang một ý nghĩa lớn lao. Cách đây 60 năm (Năm Quý Mão 1963) lúc cả nước ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống  Mỹ ác liệt, lời thơ chúc tết của Bác ngắn gọn nhưng toát lên một khí thế mới: “Mừng năm mới – Cố gắng mới – Tiến Bộ mới – Chúc Quý Mão là năm nhiều thắng lợi…”. Ba chữ “mới” liên tục như một điệp khúc reo vang niềm lạc quan với thế chủ động và tự tin biết bao. 

Đường sáng mùa xuân
Mùa xuân là mùa mở đầu cho một năm hứa hẹn mở ra bao khát vọng là sự khởi đầu tốt đẹp theo chu kỳ thời gian tuần hoàn và cả chu kỳ phát triển của lịch sử vẻ vang dân tộc. Ảnh: Internet

Năm nay, 2023 tinh thần ấy, dự cảm ấy của Bác Hồ kính yêu dù người đã đi xa vẫn còn vẹn nguyên. Mùa xuân biểu tượng cho một vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ, dạt dào sức sống mới không chỉ thiên nhiên rạo rực mà cả lòng người hân hoan, cây cối đâm chồi nảy lộc, lòng người phấn khởi, dựng xây đất nước, bảo vệ tổ quốc vững chắc, mang lại những giá trị mới khơi dậy ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.

Điểm lại các hoạt động chính trị xã hội trong năm 2022 có thể nhận thấy cụm từ “Khơi dậy khát vọng phát triển” được nhắc đến rất nhiều trong các văn kiện, nghị quyết. Chủ đề đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước. Phải khẳng định rằng trong bối cảnh hiện nay như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” thì đây là khát vọng chính đáng của cả dân tộc ta khi hai tiếng Việt Nam vang lên trên các diễn đàn quốc tế với bao niềm tin cậy và có đủ cơ sở tin cậy hợp tác phát triển. Khát vọng có nghĩa là mong muốn làm được, đạt được những điều lớn lao tốt đẹp cho bản thân, cho cộng đồng, rộng hơn là cho cả quê hương đất nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của mình, Hồ Chí Minh luôn khát vọng đất nước phồn vinh dân tộc hạnh phúc. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ luôn mang một khát vọng lớn lao: “Tôi chỉ có một ham muối, ham muối tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Cho đến lúc trước khi đi xa, Di chúc của Người cũng để lại một khát vọng tột bậc đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới”. 

Năm 2022 là một năm quan trọng, năm thứ 2 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, năm khẳng định những nổ lực vươn lên của đất nước và dân tộc ta sau những khó khăn thách thức vừa đi qua đại dịch Covid-19, năm thể hiện sức mạnh nội sinh to lớn của đất nước của từng người dân đất Việt, năm mà có sức mạnh tiềm tàng “mãnh hổ” (năm Nhâm Dần) sức mạnh đó là sự tổng hợp nhiều yếu tố trong đó có mạch nguồn văn hóa của dân tộc. Văn hóa gắn liền với hưởng thụ và hạnh phúc của nhân dân. Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hóa dân tộc được kế thừa bảo tồn và phát triển xây dựng con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Con người Việt Nam mang trong mình bản sắc văn hóa Việt Nam như nhà thơ Huy Cận đã tạc tượng đài ngợi ca:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà”.

Con người Việt Nam trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, các thế lực phong kiến Trung Hoa luôn tìm cách Hán hóa dân tộc Việt Nam. Song với sức mạnh của niềm tin và nòi giống “con Rồng, cháu Tiên” cộng đồng cư dân Việt đã kiên trì bền vững đấu tranh để giữ lấy “hồn quốc”. Đó là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam – Triệu Thị Trinh với câu nói đầy hào khí: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ…” như là một minh chứng cho tinh thần bất khuất và khát vọng độc lập dân tộc.  

Dưới thời Lê, Lê Lợi và Nguyễn Trãi được quân dân một lòng tin tưởng đồng lòng đi theo bởi tinh thần “Việc nhân nghĩa cốt ở  yên dân” và ý chí kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ (Vua Quang Trung) phất cờ khởi nghĩa với khí thế quyết tâm: “Đánh cho để dài tóc – Đánh cho để đen răng” giữ lấy mạch nguồn hồn cốt khí phách ngàn đời truyền thống, tập quán, tập tục dân tộc.

Đường sáng mùa xuân
Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết khát vọng phát triển đất nước. Ảnh: Internet

Và sau này đến thời đại Hồ Chí Minh, Bác Hồ kính yêu đã kế thừa và đúc kết phát huy cao độ ý chí tự lực: “Đem sức ta mà giải phóng cho ta” và “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tinh thần khát vọng ấy càng được bồi đắp, càng được phát triển, càng được tôn vinh, càng được khơi dậy không chỉ trong mạch nguồn văn hóa truyền thống mà kể cả trong cả lĩnh vực xây dựng kinh tế, xã hội bảo vệ trọn vẹn chủ quyền tổ quốc thân yêu của chúng ta. Khát vọng dân tộc có một vai trò rất quan trọng, nó là động lực trọng tâm tạo nên sức mạnh vô song. Khát vọng dân tộc nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối và chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động cho toàn bộ quá trình phát triển. Khát vọng dân tộc thể hiện nhu cầu ước vọng của nhân dân trong suốt chiều dài và tiến trình lịch sử của đất nước.  

Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Tiềm năng của mùa xuân là trữ lượng tiềm ẩn, qua một mùa đông giá buốt bao sức sống, sự sống âm thầm tích nhụy, hút nhựa của phù sa đất đai làng mạc, phù sa của khí trời mát mẻ, thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Những trữ lượng ấy đã đâm chồi nảy lộc thiết tha, đã bừng sáng nhạy bén rạng rỡ, đã vươn thẳng, vươn cao lan tỏa một sức sống kỳ diệu, cộng hưởng với lòng người phơi phới. Đó là mối giao cảm, đồng cảm, mối liên kết của tình bao dung nhân ái.

Đường sáng mùa xuân
Khát vọng mùa xuân chính là sự khơi dậy sức xuân, sức trẻ, sức mới. Ảnh: Internet

Có thể nói trong những lúc khó khăn nhất đứng trước bao thử thách cam go nhất thì tình nghĩa đồng bào càng thắm thiết biết bao. Nhất là khi trải qua đại dịch Covid-19, trải qua bao cơn bão lũ lụt của thiên nhiên tràn vào dải đất thân yêu đất nước thì “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Có lẽ cái chữ “thương” tụ hội, sẻ chia, cảm thông, từ bầu sữa ca dao ngọt ngào: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” nuôi lớn những tâm hồn cao cả để rèn những ý chí kiên cường. Cội nguồn truyền thống sâu xa ấy chính là điểm tựa là bệ phóng cho khối đoàn kết dân tộc có một hệ giá trị mới, một năng lượng mới, một tinh thần mới đó là: Khát vọng phát triển!

Đường sáng mùa xuân bắt đầu từ một “Nông thôn mới”. Cũng lũy tre, ngõ xóm ấy, cũng lối chợ họp sớm hôm, cũng láng giềng khi “tối lửa tắt đèn” nhưng gương mặt nông thôn đã bừng lên đã sáng lên đã chan hoà đã kích hoạt bao cảm hứng về một nội lực mới trong lòng mỗi người, trong mỗi xóm thôn với “điện, đường, trường, trạm” không chỉ là mô hình đồng nhất phát triển mà còn là nguyện vọng khát khao hiện thực đổi mới trong cách thức kiến trúc lại một đời sống mới, chất lượng sống mới cao hơn, toàn diện hơn. Con đường sáng mùa xuân đã được mở ra những đại lộ không chỉ là đường cao tốc giao thông mà còn có những đại lộ mới, cao tốc mới sức phát triển mới trong tầm nhìn định hướng của mỗi người của mỗi nhà, mỗi xóm thôn làng bản nâng lên một tầm cao mới. Khát vọng phát triển lan rộng và tỏa sáng đến với những vùng cao miền núi xa xôi hẻo lánh. Những ngày hội truyền thống mang bản sắc dân tộc, ngày hội “tết độc lập” với bao sắc màu sắc áo thổ cẩm đan cài ríu rít tưng bừng trong những điệu múa sạp và gần đây điệu múa xòe Thái đã được tổ chức văn hóa thế giới Unesco vinh danh. Có một biên giới vững chắc, có một biên cương vững chãi không chỉ ở cương vực đất đai sông núi tổ quốc mà ở ngay trong thành trì của lòng người, tình người. Đó chính là những cột mốc bền bỉ và bền vững.

Đường sáng mùa xuân tỏa đến biên cương, hải đảo. Những dấu chân bấm vào rêu đá núi tai mèo, đèo sương phủ. Chặng đường tuần tra biên giới của các anh chập chùng bao hiểm nguy rình rập. Nhưng màu áo xanh biên phòng vẫn bền bỉ màu  rừng đậm đà thân thuộc. Những chấm lửa heo hút gió đến với các bản làng đánh thức con chữ cho bữa cơm thêm thịt, cho tấm chăn thêm bông. Tôi gặp nơi biên cương những chóp núi mang hình cánh buồm lại nhớ đến những người lính ngoài đảo khơi xa xôi  với “Những nhà giàn như tán cây bằng thép – Bốn mùa tươi không thể héo lá cờ” .

Đường sáng mùa xuân
 Vững vàng nơi đầu sóng. Ảnh: Internet

Sáng xuân này khi trên biên giới hoa mơ, hoa mận nở trắng xóa tinh khiết và trong trẻo thì ở ngoài đảo khơi xa sóng gió biển khơi, những trái bàng vuông đã bắt đầu lặng lẽ tụ quả bên chiến hào của các chiến sỹ canh phòng giữ đảo. Thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành, thiên nhiên là hình bóng đất mẹ thân thương, thiên nhiên là một phần hình hài đất nước thật gần gũi  biết bao. Thiên nhiên đã khơi dậy mối đồng cảm gắn bó với đất đai, con người khi cây cối ra hoa kết trái phát triển theo quy luật  tự nhiên. Đó cũng chính là động lực để thôi thúc phát huy cao độ sức mạnh tiềm ẩn của con người bằng ý chí nghị lực, bằng tri thức khoa học sáng tạo, bằng tình cảm chan chứa thiết tha với tình làng nghĩa nước. Các công trường xưởng máy reo vang nhịp điệu hăng say lao động với ánh lửa hàn chấp chới như sao sa, như chùm pháo hoa ngày hội. Các đường băng mở rộng cho những cánh bay đến với mọi miền tổ quốc và bạn bè quốc tế. Đó chính là nhịp điệu của mùa xuân, sức xuân, sức sống mới. Và trong những giây phút thiêng liêng chuẩn bị đón mừng năm mới ta như được nghe vọng lại lời chúc tết của Bác Hồ kính yêu bởi tiếng Người là tiếng vọng của non sông: “Bác Hồ gọi ấy là mùa xuân đến”. 

]]>
Visa nào cho bún thang ngày Tết https://trithucdoanhnhan.net/visa-nao-cho-bun-thang-ngay-tet/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3318

Tết Việt là nỗi khát khao nhất của mỗi người muốn trở về. Về nhà thôi! Tết năm nay, niềm vui lớn là được tự do, nói cười và kể chuyện, được gần người thân và cái chính là được về nhà.

Tết năm ngoái, chị Nguyên Trần còn ngơ ngẩn không về Việt Nam được vì thất lạc giấy tờ, rồi khủng hoảng dịch Covid-19 và mắc trầm cảm nhẹ. Năm nay, chị xin lại hộ chiếu, xin visa để được về với quê nhà, để đi trong mưa phùn gió bấc; rồi đi lại vào cái ngõ nhỏ sập xệ, tới chung cư cũ rích ở phía sau nhà máy rượu Hà Nội, đó là chung cư của nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo xưa lắm rồi. Nhà máy Trần Hưng Đạo đã xóa đi, mọc lên một tòa nhà hoành tráng; một thế hệ sinh từ những năm hai ngàn trở đi không biết nơi đây từng là nhà máy Diêm Hà Nội nổi tiếng một thời, gắn bó thân thiết với nhiều kỷ niệm của bao người.

Rồi cuối cùng, chị cũng có visa về nhà trước Tết, cùng cô em dâu đi chợ mua gà quê, mua đầu tôm khô, mua miếng vải màn thưa khâu thành cái túi luộc đầu tôm làm nước dùng cho bún thang pha với nước luộc gà. Bún thang làm kỳ công mà mẹ dạy Nguyên Trần phải lụi hụi làm từ chiều 29 Tết. Riêng 30 làm cỗ Tết, mâm cỗ cổ truyền với 10 món, gồm 6 đĩa 4 bát. Cỗ truyền thống xưa ngoài 10 món, còn có xôi vò chè đường ăn tráng miệng. Bây giờ đơn giản hơn, người ta chỉ làm một bát măng khô hầm móng giò, bát bóng nấu tôm khô, nấm với xúp lơ xanh cũng đủ ngũ hành. Giờ đây dân tình cũng bỏ bớt món khoai tây nấu cari và bát miến nấu lòng gà chỉ để mâm ăn, chứ không dâng miến thờ cúng tổ tiên bởi quan niệm sẽ “rối ruột” các cụ.

Visa nào cho bún thang ngày Tết
Visa nào cho bún thang ngày Tết

Bún thang Hà Nội (Ảnh: HVH)

Tết nhất hình như chỉ có ngày 30 và mùng 1, sang đến mùng 2, mẹ chị Nguyên Trần bảo “thế là xong Tết, con đi làm bún thang ăn cho mát ruột”. Mùng 2 Tết đã có chợ rồi, rau xanh chỉ có đắt hơn nhưng rau cỏ, bún tươi cũng ngon hơn. Rồi làm món ruốc tôm khô cho bún thang, trứng tráng thái mỏng nhỏ như sợi tóc, cùng giò và thịt gà, nấm hương. Trứng muối luộc cắt lát nửa non bày cho đẹp mắt. Những công đoạn làm món bún thang tùy lúc nào nhàn thì làm trước, như làm ruốc tôm khô chẳng hạn, cũng như việc muối trứng vịt cũng chuẩn bị trước cả tháng trời. Ngày mùng 1, gia đình sum họp ăn Tết cổ truyền. Sang mùng 2, con cháu chung tay làm bún thang cho vui cửa vui nhà. Nguyên Trần chỉ dành việc thái trứng tráng và giò lụa theo cách thái chỉ, riêng thịt gà thì xé phay nhỏ.

Chao ơi, những ngày này năm ngoái cứ sôi lên nỗi nhớ, nhớ Tết bún thang; rồi chầm chậm cũng có bún thang, việc lo liệu visa cũng vì bún thang. Đủ thứ nông nỗi nhớ Tết Việt. Nhớ cái ngọn đèn tiết kiệm điện, tù mù ở hành lang chung cư cũ, nhớ khói quạt bếp mùn cưa năm nào, hay nhớ mùi dầu hỏa xộc lên khi tắt bếp. Ở Bắc Âu, đầy tuyết trắng xóa, trắng xóa cả tháng trời mà chỉ ngồi nhớ vơ vẩn cái bếp mùn cưa và tiếng ho sặc sụa của bà hàng xóm tên Tuất. Bà chỉ nghe tiếng bước chân mà nhận ra từng đứa trẻ nhà bên cạnh, dù ở trong nhà một mình. Bà Tuất đã mất rồi, nhưng món chả rươi băm với vỏ quýt hôi của vùng trời Bắc Cạn thì ngon và thơm còn đến giờ. Nhớ bà Tuất dành cả đĩa chả rươi cho Nguyên Trần ăn trước khi chia tay sang Na Uy cùng chồng. Người đã khuất mà vị còn trong cảm giác xót xa, vì nhớ tình láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau.

Trong hương khói ấm nồng ngày Tết, món bún thang vẫn dậy mùi nếp nhà truyền thống, gọn gàng, sạch và đạm bạc. Nhà chả có đồ đạc nên thoáng rộng, càng rộng. Bây giờ tính cô em dâu thì thích nhiều đồ cứ bầy chất ngất chật nhà, nhưng chồng nó bảo: “Không lay nổi hòn đá tảng mua sắm đâu”, thôi thì trời chả chịu đất thì đất chịu trời vậy. Tuy vậy, Nguyên Trần cũng chấp nhận sự thích mua sắm của em, nhà cửa vẫn đâu ra đấy, còn có nguyên một phòng cho cô ấy bầy bừa, không ảnh hưởng đến ai. Thế là ổn thỏa.

Bữa bún thang mùng 2 Tết không có mắm tôm, ăn kiêng dè đầu năm, còn hôm khác Nguyên Trần sẽ ăn bún thang có mắm tôm cho đủ vị nỗi nhớ nhà. Làm bún thang mà cậu em giai phải ngồi kèm để xé phay thịt gà; vợ nó thái lá chanh, nhỏ hơn sợi tóc; rồi bóc trứng muối, trò chuyện ríu rít suốt lúc làm. Sự quây quần, làm ấm lên không gian bếp Việt.

Visa nào cho bún thang ngày Tết
Chao ơi, những ngày này năm ngoái cứ sôi lên nỗi nhớ, nhớ Tết bún thang; việc lo liệu visa cũng vì bún thang, rồi chầm chậm cũng có bún thang… (Ảnh: IT)

Nhớ lại ngày bé, em con phải quạt bếp mùn cưa, quạt nan cho khói um lên mà bà Tuất suốt ngày kêu than hơi khói hắt vào nhà. Chiếc cầu thang của thời bao cấp thiếu ánh sáng, vậy mà chị sang Na Uy chỉ ngồi nhớ cái cầu thang tồi tàn sứt sẹo bậc xi măng mà chẳng có ai vá víu. Hồi đó nhà ai cũng nghèo. Xếp hàng mua được vài lạng thịt, mua con gà cũng giấu giấu diếm diếm kẻo hàng xóm để ý kêu ăn tiêu hoang, tiền ở đâu mà gà qué lắm thế?

Một thời, miếng ngon còn là giấc mơ, là ao ước, chỉ mơ ăn cơm gạo trắng thôi đã là sung sướng lắm. Thế mà giờ đây, cơm tám Điện Biên, Lào Cai, Sín Chải, rồi mọi thứ ngon nhất ở núi cao đổ về Hà Nội, chả thiếu thứ gì, khiến giấc mơ thèm ăn không còn. Cũng là một thứ mất đi cảm giác ngon, cũng là mất đi một cảm giác thưởng thức nghệ thuật ẩm thực. Bao nhiêu người Việt vẫn giữ món ngon ở nơi xa xứ, vì nó ngon không giống món Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu, và vị của nó cũng khác vị của xứ tuyết ít nắng. Chả thế mà khách Âu, cứ bỏ tiền ra “mua nắng” ở cửa biển Phú Quốc, Cát Dứa, Cát Cò ở vùng Kiên Giang, Hải Phòng, rồi Cô Tô Quảng Ninh. Họ mua vé, chi tiền đô la chỉ để nằm nhìn nắng. Ở Việt Nam đây, nắng cho trái dứa, chuối thơm thì lại không quý hoa quả như ở nước ngoài. Ngay cả nhãn, thanh long, vải thiều khi xuất khẩu sang Nhật, Mỹ với giá cả đắt cắt cổ, mà có thấy mấy người Việt quý hóa hương hoa quả của nước mình? 

Trong lúc gia đình ở bên nhau, Nguyên Trần kể về nỗi thèm nước mắm ngon ở Việt Nam. Bên kia cũng có, nhưng đào đâu ra nước mắm rút nõ Thanh Hóa hay nước mắm ông già ở Phú Quốc, có nằm mơ cũng không có nhé. Rồi hay như củ gừng tím ở Sơn La cũng vậy, cay nhức răng thơm nhức mũi. Nguyên Trần là dân ngụ cư ở Bắc Âu, ăn theo chồng mà chồng chị không muốn về nước, còn vợ thì muốn lắm mà không bỏ được vì phận gái theo chồng. Sáu tháng mùa đông đầy tuyết âm âm u u, thèm một tiếng thở dài của mẹ hỏi thăm bao giờ con về, thèm bát bún riêu cua đồng, bún thang 19 năm mới có cơ hội bay về để ăn.

Có khi còn thèm cả tiếng Việt ở nơi ít người Việt. Chồng Nguyên Trần ít nói, đi làm về là đọc sách nghiên cứu nên không mấy khi trò chuyện cùng vợ, Nguyên Trần toàn nói chuyện với cây hoa trồng trước cửa. Đôi khi nghĩ giá như được sống ở Đan Mạch, ở đó có “thư viện người”, đến đó người được gặp người để hàn huyên cho hết nỗi buồn. Người của “thư viện người” sẽ ngồi im lắng nghe ta hết thảy câu chuyện mà ta cần để giải tỏa căng thẳng. Người nói sẽ dễ chịu hơn, không vấp bệnh trầm cảm, không stress. “Thư viện người” ấy thật là cứu tinh cho bao người cô đơn, lạc lõng, bao nhiêu tâm trạng u uẩn chưa được nói ra tiếng người và được người nghe thấu hiểu. Giống như sum vầy của Tết Việt, nó nâng đỡ bao nhiêu sự mất mát, được sẻ chia, vỗ về, an ủi.

Rồi chưa hết Tết, cô em dâu đã đi chợ mua cho chị chồng những thứ mà chị thích hoặc bên xứ người không có; là sự quan tâm, muốn chìa tay chia sẻ, muốn bao bọc những năm tháng cách xa mà chị không ở gần. Nguyên Trần thấy hết và nhìn ra cách chạy vạy để làm visa về quê ăn Tết của nhiều người Việt đều có một mong mỏi đoàn tụ. Rồi chị hẹn cô em dâu, đi mua những thứ để về quê nội chùa Thầy, để về thăm họ hàng, ngoảnh lại tuổi thơ ở làng những ngày sơ tán. Biết đâu đó rồi Nguyên Trần khó có thể trở về, vì chẳng ai nói trước được điều gì, khi bay trên trời mười mấy giờ bay, rồi những vướng víu khác ở xứ người đi lại xa lắc xa lơ.

Tết Việt là nỗi khát khao nhất của mỗi người muốn trở về. Về nhà thôi! Cũng may là dịp trở về này không phải đi cách ly, không còn lo bà con xa lánh vì đủ lý do có lý và vô lý khác. Tết năm này, niềm vui lớn là được tự do, không phải về quê nhà bị dân làng lảng tránh, xua đuổi. Tổn thương cũng hay để lại nhiều vết sẹo khó lành trong lòng người khi gặp thời gian đại dịch. Tết năm nay vui hơn hẳn năm trước, được tự do nói cười và kể chuyện, được gần người thân và cái chính là được về nhà. Về nhà – lý do chỉ đơn giản ấy, dù bao cung đường cách xa cách ly, nay còn được về bên nhau sau đại dịch, cũng đủ để mỗi gia đình được đoàn tụ, hân hoan đón năm mới, xuân sang./.

]]>
Còn quê hương thì làm phong tục https://trithucdoanhnhan.net/con-que-huong-thi-lam-phong-tuc/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:43 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3323

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự.

Tôi là người Kinh, nhưng anh em bạn bè gốc gác các dân tộc thiểu số mạn Tây Bắc, Việt Bắc. Thời khó khăn, sau khi nghỉ Tết, có lần tôi và Hoàng Đình Thắng (người Tày) ra Bến Nứa xếp hàng lấy vé xe ngược Tuyên Quang (hồi ấy còn là Hà Tuyên). Cũng xin nói thêm, trên đất cũ của Bến Nứa nay là một bến xe bus ngoài trời của vận tải công cộng Hà Nội, mạn gần cầu Long Biên.

Mua vé đã khó, xe chật như nêm, hành trình dọc quốc lộ 2 thật gian nan. Như bây giờ lên Tuyên chắc chỉ 1 tiếng rưỡi gì đó. Ngày đó “đi dọc câu hò”. Khá bền bỉ, né tránh thanh niên “đen đỏ”, chơi xóc dĩa trên xe, mới về đến Sơn Dương quê bạn.

Mồng 3 Tết, bạn rủ đi chơi trò “Ném còn”. Hồi đó, tôi chỉ nghĩ là trò chơi dân gian của cộng đồng dân tộc Tày. Hóa ra, không gian văn hóa của các dân tộc Thái, Tày, Mường, Nùng đều có ném còn. Nó có nguồn gốc từ rất lâu đời.

Tuyên Quang cũng như các tỉnh miền núi phía Bắc, ra Tết nhiều đợt gió mùa lạnh sâu. Sau khi ăn sáng, chè cháo mãi, hai anh em quây quần bên bếp củi đặt giữa nhà cùng mẹ Hoàng Đình Thắng và mấy đứa em. Bà có tên con gái hẳn hoi, nhưng khi Hoàng Đình Thắng sinh ra thì bà “mất tên”. Người Tày cũng giống như nhiều vùng quê nông thôn miền Trung, sau khi đứa con đầu lòng ra đời thì tên con trở thành tên bố mẹ. 

Đứa con ra đời đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời sống vợ chồng, bên cạnh niềm hạnh phúc đó còn là trách nhiệm lớn lao, nuôi dạy con cái nên người. Vì vậy người Tày thường lấy tên con đầu để gọi tên cho cha mẹ, cách gọi thân mật đó là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.

Ngồi một cữ than nồng Hoàng Đình Thắng xin phép mế đưa tôi ra bãi đất, nơi bà con xã Hồng Lạc tổ chức vui xuân, ném còn. Khi hai anh em ra thì đã nô nức. Tôi như lạc vào giữa vườn hoa sắc tộc. Công nhận y phục của phụ nữ các dân tộc thật bản sắc, mê dụ. Không như người Kinh, phụ nữ ngoài y phục áo dài chung cho cả cộng đồng người Việt thì không còn gì, tất cả là “đồ Tây”.

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Ảnh: Internet

Hoàng Đình Thắng kể rằng: “Trong quan niệm của người Tày, quả còn tượng trưng cho hồn núi, hồn sông, hồn đất và hồn nước. Chính vì vậy, quả còn bao giờ cũng làm bằng vải màu đỏ, màu đen, màu xanh và màu trắng”. 

Phụ nữ các dân tộc Tây Bắc, thường làm quả còn bằng những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Dây còn cũng được khâu bằng vải, dài độ nửa sải tay, một đầu đính vào điểm tâm giao của hình vuông quả còn. Tua còn được cắt bằng vải vụn, đủ màu sắc, sau đó đính vào 4 góc quả còn và đính so le điểm trên dây còn, tạo thành biểu tượng như hình con rồng bay. Tiếng dân tộc Tày gọi là “con cuống”, mang niềm tin gửi gắm nơi con rồng đem lại sự phồn thịnh, hạnh phúc. Thường quả còn chỉ có khoảng 4 – 8 múi, nhưng với người khéo tay, họ có thể may quả còn với 12 múi gồm 12 màu. Mỗi quả còn, trong ngày hội khi tung lên mang theo niềm vui và may mắn cho người chơi.

Và rồi Hoàng Đình Thắng, đưa tôi vào trò chơi. Anh bảo: “Ta chơi với hội theo tục tỏ tình, giao duyên”. Tôi và Hoàng Đình Thắng đứng một bên, hai bạn nữ đứng một bên. “Nào ném”, anh ấn vòa tay tôi quả còn và nhắc. Trời à, đây là cách tung còn “đại trà”. Tất nhiên hai anh em chỉ tung một lúc, trả còn lại cho trái gái sở tại và đứng xem. “Bạn biết không, tung còn của giữa nam và nữ cũng là cách tìm bạn gái đấy. Đôi nào phải lòng nhau tự khắc ném cho nhau. Thông qua hội tung còn nhiều đôi trở thành chồng, thành vợ của nhau”. 

Với người Mường, cũng y chang người Thái. Hội ném còn là dịp để nam thanh nữ tú gặp nhau, là bà mối để se duyên. Bên nào thua sẽ phải để lại một vật làm tin, thường người thua sẽ là các chàng trai. Sau lễ hội, chàng trai sẽ quay lại nhà cô gái để xin lại vật đã gửi lại làm tin, là cái cớ để hai người gặp gỡ, tìm hiểu tiếp.

Tất nhiên, lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế, trai bản biết hết nhau, anh chị nào thích nhau, tìm hiểu nhau đã từ trước. Ngày xuân chỉ là lúc họ giao lưu, vui xuân cùng bạn bè. 

Còn quê hương thì làm phong tục
Quả còn được làm từ những mảnh vải vụn cắt thành hình ô vuông, có cạnh khoảng 18cm, gấp chéo 4 góc vào nhau, bên trong nhồi bằng hạt bông hay hạt thóc biểu thị của sự cầu mong nảy nở sinh sôi. Ảnh: Internet

Cách thứ hai, được Hoàng Đình Thắng chỉ vào phía sau hai anh em, giải thích, gọi là “tọt con vong” nghĩa là tung còn vòng. Ở giữa sân bãi này, trưởng bản cho chôn một cây tre, cao chừng 10m, đầu trên cao có gắn một cái vòng tròn đường kính khoảng 50 – 70cm theo phương thẳng đứng. Vòng tròn được gắn vải đỏ, xanh… phần trên khâu chắc vào mép, ở dưới thả buông để khi ai đó tung trúng vào trong vòng còn dễ phát hiện ra. Quả còn sẽ được tung lên cao nhằm hướng vòng còn trên đỉnh cột, quả còn vút qua ngọn cột tre, những dây tua ngũ sắc cũng lướt xòe ra với màu sắc rực rỡ trông thật đẹp đẹp mắt.Trò chơi này giành cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, có gia đình hay chưa đều chơi.

– “Tung vài quả, mỏi tay phết?””, tôi nói với Hoàng Đình Thắng.

– “Thì thể thao mà. Có thể thao nào không đòi hỏi sức khỏe và sự khéo léo”, Hoàng Đình Thắng mỉm cười.

Như vậy, ném còn vừa mang tính văn hóa lại vừa mang tính thể thao, rèn luyện sự tinh tế, khéo léo khi tung, khi bắt. Trò chơi cũng là sự kết hợp các động tác toàn thân, vừa sảng khoái tinh thần, vừa được giao lưu, tỏ tình, đoàn kết, vui vẻ. Cả sân bãi, vốn là nơi bọn trẻ trả trâu chăn bò, tiếng trống, chiêng và hò reo dậy lên như sấm. Vui không thể nào nói hết.

Ngoài ý nghĩa tương đồng, với người Tày, trò chơi ném còn mang ý nghĩa cầu mùa. Trước khi khép hội, thầy mo sẽ rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ. 

Sau này được đi đủ mọi “xó xỉnh” của Tây Bắc, được anh bạn khác là Vi Văn Long “xe duyên”, tôi được nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái, Lò Văn Ín ở Điện Biên cho biết: “Ném còn là biểu tượng cho âm dương hòa hợp. Quả còn trong quan niệm của người Thái tượng trưng cho dương, còn vòng tròn dán giấy đỏ trên cây tre tượng trưng cho âm. Người Thái chơi ném còn thể hiện âm – dương hòa hợp và mang ý nghĩa phồn thực. Chính vì thế, những gia đình hiếm muộn con cái thì người phụ nữ rất hào hứng tham gia ném còn để cầu tự”. 

Theo truyền thuyết của người Thái ở Điện Biên thì ngày xưa, nhân năm được mùa, mưa thuận gió hòa, vua Hùng đóng đô ở Phú Thọ đã mời các bộ tộc, bộ lạc về tổ chức lễ hội. Các tộc người như Mường, Kinh, cùng các bộ lạc như Lạc Việt, Nam Việt… về đông đủ dự hội. Chỉ riêng người Thái ở Tây Bắc về có hai người. Vua Hùng buồn rầu bảo rằng, người Thái sống trên núi, ít người, đất rộng, Vua liền ban cho người Thái trò chơi ném còn để con người nhanh chóng sinh sôi, phát triển. Cũng từ đó, trò ném còn được người Thái chơi từ ngày này sang tháng khác, trong các lễ hội của cộng đồng.

Người Thái có một niềm tin chắc nịch, trò chơi Vua Hùng ban cho rất linh thiêng. Kể từ đó, người Thái đã sinh sôi phát triển trở thành tộc người có dân số lớn nhất vùng Tây Bắc. Tức là về mặt tâm linh, ném còn không chỉ là trò chơi dân gian, thể thao cộng đồng, mà còn mang ý nghĩa tốt tươi, nảy nở. Không chỉ thế, còn tung lên mang ý nghĩa tượng trưng cho những buồn đau và mọi việc xấu sẽ được rũ sạch, thay vào đó là sự ấm no, hạnh phúc. Nếu ném trúng vòng tròn cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu. 

Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Do đó, những người Thái hiếm muộn thường rất hào hứng thi ném còn để cầu tự. Quả còn ném thường hướng về đầu nguồn sông, hay suối chính là hướng về các bản làng người Thái.

Còn quê hương thì làm phong tục
Với người Thái, trò chơi ném còn đưa tới thông điệp mong muốn âm – dương hòa hợp, cầu mong con cái trong nhà đông đúc. Ảnh: Internet

Có câu chuyện này, tôi muốn nói thêm, đã từng được dự nhiều bữa cơm cùng với gia đình hai người bạn Hoàng Đình Thắng và Vi Văn Long, tôi cứ suy nghĩ mãi về giao tiếp. Khi Hoàng Đình Thắng hay Vi Văn Long về đến nhà, rặt nói tiếng dân tộc mình. Chỉ khi hai anh hoặc có người trong nhà hỏi han tôi, mới dùng đến “quốc ngữ”. Ý thức giữ bản sắc từ tiếng nói, trang phục của các cộng đồng dân tộc là điều đáng phải suy nghĩ. Điều này, không như người Kinh. Và, tôi nhớ bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”. 

Ngôi nhà ông ở Hà Nội là không gian Tày gần gũi. Phu nhân nhà thơ vừa địu con trên lưng vừa thổi cơm, lẩm nhẩm thơ chồng:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Ông tên thật là Hứa Vĩnh Sước, người Tày ở Trùng Khánh, Cao Bằng./.

]]>