Thị trường vốn – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Mon, 28 Jul 2025 15:51:22 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg Thị trường vốn – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Ngành tài chính Nhật Bản biến động sau cuộc bầu cử thượng viện https://trithucdoanhnhan.net/nganh-tai-chinh-nhat-ban-bien-dong-sau-cuoc-bau-cu-thuong-vien/ Mon, 28 Jul 2025 15:51:18 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/nganh-tai-chinh-nhat-ban-bien-dong-sau-cuoc-bau-cu-thuong-vien/

Trong một diễn biến chính trị quan trọng tại Nhật Bản, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền cùng với đối tác New Komeito đã mất đa số tại Thượng viện Nhật Bản. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 1955, chính phủ do LDP lãnh đạo không còn đa số tại cả Hạ viện và Thượng viện. Điều này có thể dẫn đến tăng sự bất ổn chính trị tại Nhật Bản.

Theo số liệu mới nhất từ NHK, LDP và Komeito đã giành được 47 ghế trong cuộc bầu cử Thượng viện này. Nếu được xác nhận, con số này nằm trong khoảng dự kiến ban đầu (32-51 ghế) nhưng vẫn đánh dấu một sự phản đối mạnh mẽ đối với Thủ tướng Ishiba. Mặc dù vậy, Thủ tướng Ishiba đã tuyên bố sẽ tiếp tục giữ vị trí lãnh đạo của mình. Điều này có nghĩa là chính phủ thiểu số của liên minh LDP-Komeito có thể sẽ tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên, việc hợp tác với các đảng đối lập trên cơ sở từng dự luật sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để thông qua các dự luật, cho thấy có khả năng sẽ có một chính sách tài khóa mở rộng trong tương lai.

PayPay user growth since launch in 2018
PayPay user growth since launch in 2018

Cùng với những diễn biến chính trị, lĩnh vực Fintech tại Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Một số sự kiện đáng chú ý trong tuần qua bao gồm bảo hiểm, ngân hàng, thanh toán và thị trường vốn. Công ty bảo hiểm nhân thọ Neo First Life đã ký kết một thỏa thuận hợp tác kinh doanh với Car Seven DigiField. Đồng thời, Tokio Marine dR (TdR) và Corpy & Co. sẽ bắt đầu một hợp tác kinh doanh chiến lược nhằm hỗ trợ việc thúc đẩy sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) của các công ty Nhật Bản.

Upper House Election Results (125 seats required for majority)
Upper House Election Results (125 seats required for majority)

Ngoài ra, tập đoàn tài chính Sumitomo Mitsui đang cân nhắc tăng cổ phần của mình tại ngân hàng Ấn Độ YES BANK lên tới 25%. PayPay đã đạt mốc 70 triệu người dùng đăng ký. Về thị trường vốn, khối lượng giao dịch hợp đồng tương lai JGB20 năm đã đạt mức kỷ lục.

Với những thay đổi không ngừng trong lĩnh vực tài chính và công nghệ tài chính, Nhật Bản đang chứng kiến một kỷ nguyên mới của sự phát triển và đổi mới. Những diễn biến gần đây thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong môi trường tài chính và chính trị của Nhật Bản, mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong thời gian tới.

]]>
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế https://trithucdoanhnhan.net/thi-truong-trai-phieu-la-kenh-huy-dong-von-hieu-qua-trong-nen-kinh-te/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:59 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1320

Để có nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, các doanh nghiệp bất động sản cần xem xét kỹ và thực hiện các điều kiện để có thể tiếp tục phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ.

Những năm gần đây, trái phiếu đang dần trở thành một kênh huy động vốn của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp bất động sản. Trong năm 2021, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành tổng cộng 722.700 tỷ đồng, tăng 56% so với năm 2020. Tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp lưu hành cuối năm 2021 đạt khoảng 1,4 triệu tỷ đồng (tương đương tốc độ tăng trưởng bình quân 46%/năm trong giai đoạn từ 2017-2021). Theo đó, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã tăng mạnh, từ 4,9% GDP năm 2017 lên tới 16,6% GDP vào năm 2021.

Trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2021, các doanh nghiệp bất động sản là nhóm phát hành nhiều nhất với 318.200 tỷ đồng (tăng 66,3% so với năm 2020) và chiếm 44% tổng lượng phát hành năm 2021. Kế đến, các ngân hàng phát hành tổng cộng 226.400 tỷ đồng, chiếm 31,3% tổng lượng phát hành và tăng 73% so với năm 2020 (một phần do nhu cầu cần nguồn vốn để bù đắp lượng trái phiếu mua lại trước hạn lên tới 67.000 tỷ đồng).

Ngoài ra, các nhóm ngành năng lượng khoáng sản, định chế tài chính phi ngân hàng, phát triển hạ tầng phát hành từ 28.000 tỷ đồng đến 30.000 tỷ đồng, chiếm trên dưới 4% tổng lượng phát hành; trong đó lượng phát hành của các định chế tài chính phi ngân hàng (chủ yếu là các công ty chứng khoán) và nhóm phát triển hạ tầng tăng cao so với năm 2020 (lần lượt tăng 152% và 225%).

Tuy nhiên, có một thực tế đáng lo lắng, khi tăng trưởng mảng trái phiếu doanh nghiệp đóng góp nhiều vào mức tăng trưởng tín dụng năm 2021 ở nhiều ngân hàng như TCB, VPB, MBB, TPB. Việc một số ngân hàng ồ ạt mua trái phiếu doanh nghiệp thời gian qua có thể có cả mục đích đảo nợ, cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp. Nói cách khác, đây là một cách ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau dùng trái phiếu doanh nghiệp để đảo nợ.

Đặc biệt, trong thời gian qua, các loại trái phiếu doanh nghiệp được phát hành tại Việt Nam hầu hết đều chưa được xếp hạng tín nhiệm, nhiều loại trái phiếu không có tài sản đảm bảo; một số doanh nghiệp công bố huy động vốn trái phiếu với lãi suất cao, nhưng không có phương án kinh doanh khả thi rõ ràng, do vậy rất khó có khả năng đảm bảo trả được nợ gốc và lãi sau này.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn đang tiềm ẩn rủi ro đối với một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu với lãi suất cao. Khi doanh nghiệp bất động sản gặp trục trặc thì ngân hàng và cả nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ nắm giữ các trái phiếu doanh nghiệp đều có thể bị vạ lây, thậm chí phá sản. Tất nhiên, trong ngắn hạn, rủi ro vỡ nợ đến từ các doanh nghiệp này là chưa nhiều khi thời điểm đáo hạn của các trái phiếu doanh nghiệp hầu hết vào năm 2024 – 2025.

Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế

Trước sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã xuất hiện những rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy trong thời gian gần đây, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã liên tiếp phát đi thông điệp cảnh báo; đồng thời triển khai những hành động quyết liệt để thị trường tiềm năng này phát triển ổn định, an toàn, hiệu quả.  

Ngay từ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp manh nha những rủi ro, cuối năm 2019, Bộ Tài chính đã kịp thời phát đi những cảnh báo đầu tiên. Tiếp đó, trong bối cảnh thị trường này tăng mạnh, trong năm 2020 và năm 2021, Bộ Tài chính đã liên tiếp gia tăng tần suất và cường độ cảnh báo rủi ro. Trong hai năm trở lại đây, với nhiều hình thức khác nhau, các thông tin cảnh báo về rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã được nhiều cơ quan thông tấn, báo chí đăng tải rộng khắp, truyền thông điệp của các cơ quan quản lý, cũng như các chuyên gia uy tín.

Bộ Tài chính đã yêu cầu Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Vụ Tài chính ngân hàng, Thanh tra Bộ Tài chính, Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam,… đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp để đảm bảo thị trường này trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, hiệu quả và hạn chế tối đa rủi ro cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, tính chủ động và sự kiên quyết, việc kiểm tra sâu sát và chế tài xử lý với các chủ thể phát hành của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chưa thực sự nghiêm khắc.

Khung pháp lý quản lý trái phiếu doanh nghiệp liên tục được hoàn thiện. Theo quy định tại Luật Chứng khoán năm 2019 và Luật Doanh nghiệp năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 về chào bán và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế và Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán quy định về chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng. 

Để quản lý tốt trái phiếu doanh nghiệp, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 57/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 20/7/2021 quy định lộ trình sắp xếp lại thị trường các loại chứng khoán, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp sẽ hoạt động trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong năm 2022. Theo đó, chậm nhất đến hết ngày 31/12/2022, HNX thống nhất tổ chức thị trường giao dịch trái phiếu theo quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bộ Tài chính đã tiến hành kiểm tra một số doanh nghiệp có khối lượng phát hành trái phiếu lớn, phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo và tình hình tài chính yếu kém.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đề nghị Ngân hàng Nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Công an thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp bất động sản huy động vốn từ phát hành trái phiếu và phối hợp chia sẻ thông tin kết quả kiểm tra, giám sát.

Đáng lưu ý, trước thực tế, nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu với khối lượng lớn nhưng không phục vụ cho sản xuất kinh doanh, trên cơ sở công tác quản lý giám sát và kết quả kiểm tra về tình hình phát hành, cung cấp dịch vụ về trái phiếu doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đánh giá để đề xuất sửa đổi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP theo hướng hạn chế hiện tượng tiêu cực, tăng cường công khai minh bạch trong huy động vốn trái phiếu. 

Ngày 16/9/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung nhiều điều, khoản so với Nghị định 153. Như quy định về điều kiện phát hành trái phiếu tuân thủ quy định tại Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Nghị định 65 chỉ điều chỉnh một số quy định về hồ sơ, để đảm bảo tăng tính minh bạch của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tăng tính tiếp cận thông tin của chủ thể phát hành và của nhà đầu tư. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm về công bố thông tin của nhà phát hành cho nhà đầu tư và trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và các quy định khác.

Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế
Nguồn cung thị trường bất động sản đang phụ thuộc vào nguồn vốn cho các doanh nghiệp, trong đó, vốn trái phiếu rất quan trọng. (Ảnh minh họa: Reatimes)

Nghị định 65/2022/NĐ-CP bổ sung quy định về hồ sơ chào bán trái phiếu gồm: Kết quả xếp hạng tín nhiệm trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của Luật Chứng khoán và lộ trình thực hiện như quy định đối với chào bán trái phiếu ra công chúng (từ 01/01/2023); hợp đồng ký kết với đại diện người sở hữu trái phiếu trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân và xác nhận của ngân hàng thương mại về việc mở tài khoản nhận tiền mua trái phiếu.

Như vậy, nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định bổ sung yêu cầu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp trong hồ sơ phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ theo từng trường hợp và lộ trình như đối với trường hợp phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng theo các quy định hiện hành. Đồng thời, nghị định cũng quy định doanh nghiệp được phát hành trái phiếu riêng lẻ để cơ cấu lại nợ doanh nghiệp.

Nghị định bổ sung quy định doanh nghiệp phải mua lại trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành; trước và sau khi phát hành phải có công bố thông tin về khả năng đảm bảo thanh toán, báo cáo kiểm toán tình hình tài chính và kiểm toán tình hình sử dụng vốn theo mục đích phát hành đã được công bố. Với quy định này, quyền lợi của nhà đầu tư trái phiếu được đảm bảo ở mức độ cao hơn.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP cũng bổ sung quy định tài sản bảo đảm của trái phiếu phải được định giá và đăng ký biện pháp bảo đảm. Đồng thời quy định: Nội dung Chuyên trang thông tin về trái phiếu doanh nghiệp tại Sở Giao dịch chứng khoán sẽ bổ sung công bố một số chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp phát hành, thông tin về các doanh nghiệp không thanh toán đầy đủ gốc, lãi trái phiếu, sử dụng vốn trái phiếu không đúng mục đích để nhà đầu tư và thị trường biết được thông tin của doanh nghiệp phát hành. 

Nghị định bổ sung các quy định để tăng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cá nhân khi mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, hạn chế tối đa nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ gian lận để mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Trong đó, việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bằng danh mục chứng khoán phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình từ 2 tỷ đồng tối thiểu trong vòng 180 ngày bằng tài sản của nhà đầu tư, không bao gồm tiền vay. Thời hạn có hiệu lực của giấy chứng nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp chỉ là 3 tháng thay vì 1 năm như trước đây.

Khi mua trái phiếu, nhà đầu tư phải đọc, hiểu và ký văn bản xác nhận đã tiếp cận đầy đủ các tài liệu về trái phiếu dự kiến mua và hiểu biết pháp luật, chấp nhận rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ (cả trên thị trường sơ cấp và thứ cấp); tổ chức cung cấp thông tin và tổ chức xác nhận tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp cùng ký xác nhận lên văn bản này về việc đã cung cấp đầy đủ thông tin và hồ sơ cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư không được phép bán hoặc cùng góp vốn đầu tư trái phiếu với nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Nghị định bổ sung quy định nhằm tăng cường tính minh bạch và tuân thủ pháp luật của các tổ chức cung cấp dịch vụ, như: Đại lý phát hành là công ty chứng khoán được Ủy ban Chứng khoán nhà nước cấp phép hoặc ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Tổ chức đấu thầu, bảo lãnh, đại lý phát hành phải xác nhận về việc doanh nghiệp phát hành đã nhận đủ tiền thu từ phát hành trái phiếu. Tổ chức cung cấp dịch vụ không được là người có liên quan của doanh nghiệp phát hành.

Trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ đã được bổ sung cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của tổ chức phân phối trái phiếu nếu hỗ trợ doanh nghiệp phát hành khống hoặc cung cấp thông tin sai sự thật, chào mời nhà đầu tư cá nhân mua trái phiếu. Trường hợp các tổ chức này vi phạm quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc bị xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung quy định để thiết lập thị trường giao dịch có tổ chức. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ phải lưu ký tập trung tại Tổng công ty Lưu ký và bù trừ chứng khoán, sau đó đăng ký giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán.

Tại phương án phát hành trái phiếu phải nêu cụ thể đối tượng nhà đầu tư mua trái phiếu, sau khi phát hành trái phiếu chỉ được giao dịch giữa các đối tượng nhà đầu tư đã công bố tại phương án phát hành.

Để hoàn thiện quy định về cơ chế quản lý, giám sát, Nghị định còn bổ sung trách nhiệm giám sát của Sở Giao dịch chứng khoán, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam và trách nhiệm của Ủy ban Chứng khoán nhà nước trong việc quản lý, giám sát và thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Bộ Tài chính có trách nhiệm đánh giá việc thực hiện cơ chế chính sách; quản lý, giám sát tổ chức kiểm toán, doanh nghiệp thẩm định giá khi cung cấp dịch vụ liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp; Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm giám sát các tổ chức tín dụng khi cấp phép cho các tổ chức này cung cấp dịch vụ đấu thầu, đại lý phát hành trái phiếu.

Đồng thời, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung pháp lý tại cấp luật và các văn bản hướng dẫn tập trung vào việc đánh giá điều kiện phát hành và điều kiện nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp để kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp.

Theo thống kê, hiện lượng trái phiếu riêng lẻ chiếm áp đảo 95% (khoảng 1,425 triệu tỷ đồng) trong tổng khối lượng trái phiếu phát hành tính đến cuối năm 2021 (1,5 triệu tỷ đồng).

Cuối tháng 7/2022, Bộ Tài chính cho biết, trong năm 2022, khối lượng trái phiếu đáo hạn khoảng 144.500 tỷ đồng. Con số này của năm 2023 ở mức 271.400 tỷ đồng và năm 2024 sẽ là 329.500 tỷ đồng. Theo đó, tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp đến hạn trả nợ trong vòng 3 năm tiếp theo lên tới 745.400 tỷ đồng. Quý IV/2022, bất động sản là ngành có lượng trái phiếu đáo hạn lớn nhất với tổng giá trị đạt hơn 20 nghìn tỷ đồng. Phần lớn trái phiếu được công ty bất động sản phát hành với kỳ hạn ngắn hơn chu kỳ phát triển của dự án bất động sản, nhằm giúp lãi suất phát hành thấp hơn và việc phát hành, hấp thụ trái phiếu trở nên dễ dàng hơn. Điều này dẫn đến nhu cầu vòng quay trái phiếu khi đáo hạn là rất cao. Tuy nhiên, áp lực trái phiếu đáo hạn đã được giảm thấp với trào lưu mua lại trước hạn trái phiếu của các doanh nghiệp. 
Với các quy định mới của cơ quan quản lý và sau các sự kiện chưa có tiền lệ về việc hủy các lô trái phiếu đã phát hành của một số doanh nghiệp, thị trường chứng kiến làn sóng mua lại trái phiếu trước hạn mạnh mẽ của các doanh nghiệp phát hành. Theo đó, tính đến 30/9/2022, số dư TPDN giảm xuống 1,3 triệu tỷ đồng. Hiện nay giá trị trái phiếu do ngân hàng phát hành là hơn 400 nghìn tỷ, TPDN phi ngân hàng là hơn 920 nghìn tỷ đồng. Chiếm gần 50% trong số này là dư nợ trái phiếu bất động sản (455 nghìn tỷ đồng).

Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), trong tháng 9/2022, tổng giá trị trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 28.833 tỷ đồng, tăng 199% so với cùng kỳ năm trước. Tính luỹ kế trong 9 tháng năm 2022, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại là 142.209 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm 2021. Rõ ràng, với giá trị mua lại trong 9 tháng đầu năm 2022 rất cao, áp lực thanh toán nợ trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn đã giảm đi đáng kể.

Tuy nhiên, giá trị phát hành trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 9/2022 vẫn ở mức thấp, không có nhiều bứt phá. Cụ thể, trong tháng có tổng cộng 25 đợt phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp trong nước với tổng giá trị phát hành là 15.363 tỷ đồng. Ngân hàng vẫn là nhóm dẫn đầu với tổng giá trị phát hành 9.623 tỷ đồng. Nhóm bất động sản đứng thứ hai phát hành 2.300 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 5 năm. Nhóm hàng tiêu dùng đứng thứ ba phát hành 1.500 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 5 năm và 7 năm.

Lũy kế 9 tháng đầu năm 2022, giá trị phát hành trái phiếu ra công chúng là 10.499 tỷ đồng, giảm 9,37% so với cùng kỳ năm ngoái (chiếm khoảng 4,3% tổng giá trị phát hành). Giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ là 233.692 tỷ đồng, giảm 40% (chiếm khoảng 95,7% tổng giá trị phát hành).

Để có nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, các doanh nghiệp bất động sản cần xem xét kỹ và thực hiện các điều kiện để có thể tiếp tục phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP để vừa đảm bảo nguồn vốn đầu tư vào các dự án bất động sản, vừa đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán.

Với việc ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP và sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển bền vững, an toàn, lành mạnh, ổn định và trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Bộ Tài chính cho biết đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giãn thời gian thực hiện trong vòng 1 năm, tức là từ ngày 1/1/2024 sẽ tiếp tục thực hiện quy định về xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình 2 tỷ đồng tối thiểu trong 180 ngày, không bao gồm tiền đi vay.

Trong dự thảo nghị định sửa đổi, Bộ Tài chính báo cáo thị trường đang gặp khó khăn về thanh khoản. Việc giãn thời gian thực hiện quy định về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 1 năm sẽ giúp thị trường có thêm thời gian điều chỉnh và có thể duy trì cầu đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất giãn thời gian thực hiện 1 năm đối với quy định yêu cầu xếp hạng tín nhiệm bắt buộc tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. 

Nghị định 65/2022/NĐ-CP yêu cầu từ 1/1/2023, hồ sơ chào bán trái phiếu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm, được áp dụng với những doanh nghiệp có tổng giá trị trái phiếu huy động trong 12 tháng lớn hơn 500 tỷ đồng và lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu hoặc tổng dư nợ trái phiếu lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu.

Bộ Tài chính lý giải trong bối cảnh huy động vốn khó khăn, trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm sẽ mất một thời gian đáng kể và tăng thêm chi phí phát hành.

Do đó, Bộ Tài chính đề xuất hoãn thực hiện quy định về yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm trong vòng 1 năm, từ ngày 1/1/2024 sẽ thực hiện thay vì từ 1/1/2023 như quy định tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Đối với trái phiếu chào bán ra công chúng, doanh nghiệp phát hành vẫn phải xếp hạng tín nhiệm từ đầu năm sau.

 

]]>
Khơi thông thị trường vốn 2023: Chờ hiệu ứng đầu tư công và ổn định tiền tệ https://trithucdoanhnhan.net/khoi-thong-thi-truong-von-2023-cho-hieu-ung-dau-tu-cong-va-on-dinh-tien-te/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:25 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2342

Khó khăn phần lớn đến từ tác động bên ngoài, không phải do nội tại Việt Nam. Và sự suy giảm tiêu dùng có yếu tố phụ từ gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu.

Năm 2022 tăng trưởng GDP tốt bởi các yếu tố xuất phát điểm GDP năm 2021 quá thấp, làm cho tốc độ tăng vượt lên; và yếu tố thứ hai là quý I, quý II, chúng ta có mức xuất khẩu tốt, do Việt Nam vẫn liên tục phát triển để xuất khẩu với thế giới. Tuy nhiên, đến quý III thì bắt đầu giảm và quý IV thực sự gặp khó khăn.

Khơi thông thị trường vốn 2023: Chờ hiệu ứng đầu tư công và ổn định tiền tệ
Bất động sản và xây dựng là 2 ngành thâm dụng vốn lớn và suy giảm mạnh về tỷ suất sinh lợi trong năm 2022. Ảnh minh họa

Cơ cấu vốn

Về cơ cấu tài chính doanh nghiệp, chúng ta thấy đối với các công ty niêm yết, có ba chỉ tiêu chúng tôi quan tâm hiện nay đó là: Thứ nhất về cơ cấu vốn của năm 2022 đều tăng rất mạnh, nhất là ngành bất động sản đã đạt tới ngưỡng. Tuy nhiên cơ cấu nợ của các công ty bất động sản đã lên tới 86,9%, trong khi các ngành khác đều hợp lý như ngành công nghiệp hay thương mại dịch vụ, hàng tiêu dùng, chỉ ở khoảng 50 – 60%.

Thứ hai, về doanh thu, các công ty niêm yết ngành thương mại tiêu dùng là ngành sử dụng vốn tốt nhất, sử dụng thuần tuý vốn lưu động, nên vòng quay vốn rất nhanh, sử dụng doanh thu trên vốn cao. Trong khi đó, ngành bất động sản và xây dựng là ngành thâm dụng vốn lớn nhất để tạo ra doanh thu, cho thấy thị trường đang suy giảm.

Thứ ba, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE, các công ty niêm yết ngành công nghiệp và tiêu dùng lại suy giảm trong năm 2022, trong đó ngành tiêu dùng thương mại dịch vụ suy giảm lợi nhuận khá nhiều do gặp áp lực tăng giá hàng hóa.

Thứ tư, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản thì ngành bất động sản và xây dựng đang suy giảm mạnh với tỷ suất sinh lời thấp nhất năm 2022, chỉ bằng 50% của năm 2021. Điều đó cho thấy sự quan ngại trong việc sử dụng vốn để kinh doanh trong lĩnh vực này so với các ngành khác.

2023: Chờ điểm sáng kinh tế

Năm 2023, Ngân hàng Thế giới đã dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đi xuống và đi ngang trong năm 2024, khoảng trên 6% và dưới 7%. Vừa qua, Quốc hội đã phê duyệt tăng trưởng GDP trong năm 2023 ở mức khoảng 6,5%, cũng gần ngang với các dự báo trên.

Song chúng ta vẫn có những thuận lợi và cơ hội nhất định. Theo quan sát xuyên suốt từ tháng 9 đến tháng 12/2022, tôi thấy Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đang từng bước kiểm soát những khó khăn xuất hiện như lãi suất cao, kẹt tín dụng… Đây không phải là từ chính sách mà là từ sự bất ổn trong cách sử dụng vốn để từ đó kiểm soát từng bước uyển chuyển, không gây ra các cú sốc như giai đoạn 2011 – 2012.

Hiện nay các nước đã đang chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam khi chúng ta ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là cơ hội lớn.

Cùng với đó, sự dịch chuyển FDI vào Việt Nam không chỉ giúp tiêu dùng nội địa tăng, tạo việc làm, mà còn tạo quá trình đô thị hóa, các khu công nghiệp phát triển, gián tiếp giúp BĐS tạo ra nhiều ngành nghề khác, đồng thời gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa bao gồm công nghiệp phụ trợ phát triển.

2023: Chờ điểm sáng kinh tế

Về dự báo diễn biến kinh tế năm 2023, lãi suất sẽ hạ nhiệt trong quý I và trở về ổn định vào cuối quý II/2023. Các doanh nghiệp sẽ có nguồn tín dụng tăng dần với lãi suất tốt từ quý II/2023 trở đi. Xuất khẩu có thể giảm trong quý I-II/2023, nhưng sẽ phục hồi và tăng vào quý III.

Như vậy, nền kinh tế nội địa sẽ giảm khó khăn từ quý II/2023 và có sự tăng trưởng tích cực từ quý III nhờ hiệu ứng đầu tư công và ổn định tài chính tiền tệ. Đồng thời thị trường bất động sản phục hồi nhẹ từ quý IV/2023.

Những lo lắng từ hệ thống ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp đã từng bước được kiềm chế, vấn đề lãi suất, tín dụng cuối năm nay mà chúng ta lo lắng thì ở năm sau sẽ được tháo gỡ. Và đặc biệt thị trường bất động sản phải là một thị trường hỗ trợ kinh tế tăng trưởng bền vững.

TS. ĐINH THẾ HIỂN – Chuyên gia kinh tế

]]>
Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan. https://trithucdoanhnhan.net/trai-qua-mot-nam-kinh-te-kho-du-lieu-voi-tat-ca-cac-to-chuc-du-bao-cung-nhu-chinh-phu-cac-nuoc-kinh-te-vi-mo-viet-nam-van-on-dinh-va-duy-tri-muc-lam-phat-duoi-4-nhu-muc-tieu-dat-ra-song-trong-boi-c/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:28 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3613

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

*****

Chưa bao giờ tinh thần điều hành chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả, với phương châm “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” và mục tiêu phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững lại được nhấn mạnh như thời gian qua và sẽ tiếp tục được Chính phủ thực hiện trong thời gian tới.

Phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững là một trong những mục tiêu trọng tâm đặt ra trong các văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế – xã hội, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Song song với đó, tín dụng ngân hàng cũng được kiểm soát một cách thận trọng, cùng với chính sách tài khóa linh hoạt.

Tuy nhiên, trong bối cảnh các doanh nghiệp đang xoay xở đối phó với nhiều trở ngại, nhất là về dòng vốn, vấn đề đặt ra là việc quản lý, điều hành thế nào để vừa ổn định nền kinh tế vừa hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn? Làm thế nào để tạo ra sự cân bằng, linh hoạt ở hiện tại nhưng vẫn xử lý được những “lỗ hổng” trên các thị trường, để hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai? Reatimes đã có cuộc trò chuyện với TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia Tài chính – Ngân hàng về vấn đề này.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Thưa ông, nhiều chuyên gia cho rằng, mặc dù có khó khăn nhưng hiện tại lại là cơ hội để Việt Nam cải tổ lại hệ thống tài chính, tạo ra hoạt động bền vững và nâng tầm thị trường trái phiếu. Ông có thể lý giải rõ hơn về vấn đề này?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Theo Bộ Tài chính, quy mô của thị trường vốn, bao gồm thị trường trái phiếu và cổ phiếu, trước thời điểm xảy ra khủng hoảng niềm tin (cuối quý I/2022) có giá trị vốn hóa đạt 134,5% GDP trong năm 2021. Riêng cổ phiếu đạt đến 94%, còn thị trường trái phiếu doanh nghiệp là 16,4% GDP và thị trường trái phiếu Chính phủ là 23%. Như vậy, thị trường vốn đang có tỷ trọng ngang ngửa với dư nợ tín dụng ngân hàng (11,6 triệu tỷ đồng, tương đương 132% GDP).

Khi trường trái phiếu doanh nghiệp đạt đến mức 16,4% GDP, rất nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là giới chuyên gia đã kỳ vọng, thị trường này sẽ dần thay thế và đỡ được gánh nặng cho thị trường tín dụng ngân hàng – vẫn đang là nguồn tài trợ lớn nhất của quốc gia song thực tế đã không như vậy. Có rất ít đợt phát hành thời gian qua. Minh chứng là đến cuối tháng 11/2022, quy mô của thị trường vốn giảm xuống còn 105% GDP năm 2021. Trong đó, trái phiếu doanh nghiệp giảm xuống còn 15% GDP. Những gì đã và đang xảy ra đối với trái phiếu chứng tỏ thị trường đang có vấn đề, hệ quả là sự mất niềm tin của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, khủng hoảng nào rồi cũng qua, không có thị trường nào chạm đáy rồi đứng nguyên tại chỗ, giống như khi giá của chứng khoán xuống đến mức thấp nhất thì có nhiều người đổ tiền vào mua, thúc đẩy thị trường phục hồi trở lại. Thành ra, chúng ta cũng không nên quá bi quan về thị trường trái phiếu hiện tại, bởi chắc chắn thị trường rồi sẽ phục hồi. Quan trọng là chúng ta rút ra được bài học gì từ quá khứ, bởi triển vọng tương lai sẽ tốt hơn nếu những bất cập trong quá khứ được điều chỉnh.

Trong quá khứ, thị trường trái phiếu đã được xây dựng trên một nền tảng pháp lý rất mỏng, trong khi đa phần nhà đầu tư tiềm lực yếu, thiếu chuyên nghiệp. Từ nhu cầu vốn của nền kinh tế, thị trường trái phiếu được thúc đẩy phát triển rất nhanh trong những năm qua. Thế nhưng tất cả các thành phần tham gia thị trường, từ nhà phát hành, nhà đầu tư cho đến các cơ quan quản lý giám sát… đều thiếu kinh nghiệm. Quy định, luật lệ cũng còn thiếu sót. Ngay cả Nghị định 65/2022/NĐ-CP về phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng tiếp tục được xem xét. Tất cả những điều đó là bài học để chúng ta xây dựng một thị trường ổn định và lành mạnh hơn trong năm 2023.

Tôi tin tưởng năm 2023 sẽ là năm mà thị trường trái phiếu phục hồi, nhưng phải dựa trên cơ sở khắc phục những thiếu sót của tất cả các bên liên quan để thay đổi và xây dựng một thị trường ổn định hơn.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Để phát triển an toàn, minh bạch, hiệu quả và bền vững, việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường vốn là vô cùng quan trọng, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Khung pháp lý luôn là nền tảng cho mọi thị trường, nếu lỏng lẻo, đến lúc nào đó thị trường sẽ đi vào rối loạn và khủng hoảng. Có thể thấy rõ ở thị trường trái phiếu Việt Nam, khung pháp lý của chúng ta phải thay đổi thường xuyên để phù hợp với môi trường kinh doanh còn nhiều biến động. Chúng ta đã có Nghị định 155/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu ra công chúng, Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu riêng lẻ. Vào tháng 9 năm nay, chúng ta tiếp tục sửa đổi, bổ sung Nghị định 153 thành Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Song, việc thay đổi thường xuyên như vậy chứng tỏ khung pháp lý chưa hoàn thiện, từ đó tạo ra rất nhiều lỗ hổng để một số nhà phát hành, môi giới và nhà đầu tư trục lợi.

Làm sao để phát triển thị trường an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững? Việc đầu tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý. Bộ Tài chính nên rà soát lại trong thời gian qua, Nghị định 65 với nhiều điều khoản tương đối mới đã được áp dụng như thế nào? Nếu doanh nghiệp chưa tuân thủ thì chúng ta phải tìm ra lý do tại sao? Thành ra, vấn đề điều chỉnh liên tục để có một khung pháp lý bền chặt là điều rất quan trọng.

Bộ Tài chính cũng đã trình Chính phủ Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP, trong đó có những điểm thay đổi quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề là khung pháp lý có hoàn thiện đến đâu chăng nữa mà tất cả các thành phần tham gia không tuân thủ hoặc chỉ tuân thủ một phần thôi thì đều vô nghĩa. Vì vậy, ý thức của tất cả thành phần tham gia thị trường, từ nhà phát hành, nhà đầu tư, các công ty kinh doanh, môi giới, cho đến các cơ quan giám sát phải được nâng cao, tuân thủ một cách tuyệt đối quy định pháp luật thì chúng ta mới có thị trường an toàn, minh bạch, hiệu quả và bền vững.

PV: Theo ông, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP cần lưu ý vấn đề gì để vừa kiểm soát, bình ổn thị trường nhưng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Chúng ta phải lựa chọn, hoặc đặt ra những điều kiện về phát hành trái phiếu chặt chẽ để tạo sự ổn định cho thị trường, hay là chúng ta buông lỏng để cho thị trường tự phát triển? Tất cả những quy định trong Nghị định 65/2022/NĐ-CP đều là những thông lệ trên thị trường quốc tế, phù hợp môi trường Việt Nam và cần phải thực hiện để đi đúng vào quỹ đạo của thị trường thế giới. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục xem xét.

Nghị định 65 đã có những bổ sung rất đáng kể và hữu ích, đó là yêu cầu nhà phát hành phải làm rõ vai trò của ngân hàng và khác biệt giữa bảo lãnh phát hành, bảo lãnh phân phối và bảo lãnh thanh toán. Thời gian trước, việc này đã gây ra sự hiểu lầm và khiến nhiều nhà đầu tư rơi vào rủi ro mà họ chưa từng biết. Song, vẫn cần làm rõ hơn vai trò cũng như trách nhiệm, quyền lợi của ngân hàng. Ai là người trả lương cho họ? Không phải trái chủ cũng như nhà phát hành, nhưng nếu không có người trả tiền thì sẽ không có đại diện pháp lý. Trong luật phải quy định có đại diện pháp lý… Do đó, tất cả cần phải xem xét lại để có sự điều chỉnh, bổ sung cho rõ ràng.

Ngoài ra, tôi cho rằng xếp hạng tín nhiệm là rất quan trọng, đặc biệt là nhìn từ phía nhà đầu tư thường thiếu kiến thức về tài chính. Tất cả nhà phát hành trái phiếu phải được xếp hạng tín nhiệm, bất kể phát hành ra số lượng bao nhiêu. Cần phải có một đơn vị đứng ra xếp hạng các công ty muốn phát hành, để nhà đầu tư biết họ đang ở mức đáng để đầu tư hay đang ở mức dưới – mức không khuyến khích đầu tư. Nghị định 65 có quy định xếp hạng tín nhiệm, nhưng chỉ dành cho các nhà phát hành lớn, như thế là chưa đủ.

Dĩ nhiên, cơ quan quản lý phải có những bước hỗ trợ thị trường và các doanh nghiệp trên sân chơi mới như tôi đã chia sẻ, đó là Chính phủ có thể đưa ra chính sách cho phép các nhà phát hành hoãn nợ trong vòng 1 năm và giúp các doanh nghiệp phát hành đúng quy định, theo một Nghị định 65 sửa đổi mới.

Việc sửa đổi Nghị định 65 toàn hệ thống gồm 3 thành phần: Nhà phát hành được điều chỉnh, nhà đầu tư được tạo niềm tin và Chính phủ, các cơ quan quản lý vào cuộc mạnh mẽ, tôi tin là thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam sẽ sớm hồi phục trong năm 2023.

Nhiều người lo ngại việc kiểm soát thị trường của các cơ quan quản lý sẽ làm mất đi khả năng phát triển, nhưng kiểm soát một cách hợp lý và hiệu quả sẽ là tiền đề để phát triển bền vững trong tương lai. Dĩ nhiên có những khó khăn trước mắt, nhưng sẽ tái lập niềm tin cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, từng bước đưa thị trường đi vào quy củ và ổn định.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định phải xử lý nghiêm các sai phạm về trái phiếu… đây là điều hết sức cần thiết để lành mạnh hoá thị trường. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khi quyết liệt xử lý các sai phạm cần giải pháp phù hợp để không ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Để một thị trường ổn định, rất cần kỷ luật tài chính, không có chuyện “xử lý khéo léo”. Khi đã sai phạm thì buộc phải xử lý theo pháp luật, nếu không, những lỗ hổng ngày một lớn dần và thị trường sẽ tiếp tục bất ổn. Tuy nhiên, cần minh bạch thông tin kịp thời để nhà đầu tư yên tâm theo dõi quá trình xử lý. Từ đó, họ có thể đặt niềm tin chừng nào thì lấy lại được tiền, tránh việc tất cả hoang mang tìm cách đòi nợ sẽ càng làm xấu hình ảnh của thị trường.

Bên cạnh đó, người Việt cũng có câu, đại ý là “đánh chuột đừng để vỡ bình”. Vấn đề chưa xử lý xong nhưng thị trường đã đổ vỡ là điều rất đáng tiếc. Hiện tại, rất nhiều nhà phát hành đang lúng túng vì bị các trái chủ yêu cầu mua lại trái phiếu trước hạn, mặc dù trong số đó cũng có những doanh nghiệp phát hành đúng quy định. Khi nhà phát hành không thể cơ cấu lại nợ bằng cách bán trái phiếu mới, yêu cầu này đã gây nên tình trạng “kẹt xe” cho cả hệ thống.

Bởi vậy, vấn đề hiện tại là hàn gắn sự đổ vỡ và tính toán làm sao để tránh được chuyện “vỡ bình”. Tôi đề xuất với Bộ Tài chính và Chính phủ, hãy có một chương trình hoãn nợ quốc gia, cho phép các nhà phát hành hoãn nợ trong vòng một năm cả gốc và lãi, đồng thời thuyết phục các trái chủ chờ đợi. Bởi theo nguyên tắc, chỉ một ngày chậm trả nợ là các nhà đầu tư có thể kiện cáo kéo họ ra tòa và mở thủ tục phá sản.

Tuy nhiên, doanh nghiệp phát hành không nên lo lắng luật lệ chặt chẽ quá, vì vấn đề quan trọng ở đây là cần lấy lại niềm tin. Khi niềm tin suy yếu thì dù doanh nghiệp có được phát hành trái phiếu cũng không ai mua. Vậy làm sao lấy lại được niềm tin? Có thể thấy, Chính phủ đang hết sức nỗ lực cải thiện, điều chỉnh thị trường để giúp doanh nghiệp tạo dựng niềm tin với nhà đầu tư.

Trước hết, phải sớm giải quyết dứt điểm những trường hợp có dấu hiệu sai phạm đang trong vòng điều tra, như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói, “không làm không được”. Tuy nhiên, cũng không nên xử lý sai phạm bằng cách kê biên tài sản, gây lo lắng cho nhà đầu tư và ảnh hưởng tâm lý thị trường.

Phía Ngân hàng Nhà nước cũng cần xem xét lại những sai phạm về phát hành trái phiếu trong hệ thống ngân hàng để tạo lại niềm tin. Đồng thời, các ngân hàng cần phải kiểm tra nội bộ để đưa ra quy trình chuẩn hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Chẳng hạn như phải làm rõ, trong thời gian phát hành trái phiếu có hiệu lực, nếu ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp hoặc trở thành người đại diện pháp lý cho các nhà đầu tư thì vai trò của họ là gì?

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Vai trò bình ổn thị trường không chỉ là trách nhiệm của nhà điều hành. Thực tế vừa qua cho thấy, một phần vì thiếu hiểu biết nên nhà đầu tư đã bị dẫn dụ vào các hoạt động mua bán thiếu an toàn rồi trở nên mất niềm tin. Hoạt động trong một thị trường vốn nhiều tiềm năng nhưng cũng còn nhiều rủi ro, nhà đầu tư cần làm gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Các nhà đầu tư phải hết sức cẩn trọng tìm hiểu bằng nhiều kênh khác nhau, không phải chỉ cần ngân hàng phát hành là đảm bảo. Đôi khi nhân viên ngân hàng chỉ tư vấn là trái phiếu này có bảo lãnh, nhưng người mua phải phân biệt rõ ba loại dịch vụ, đó là bảo lãnh phát hành, bảo lãnh phân phối và bảo lãnh thanh toán. Mức đảm bảo tăng theo từng cấp độ, như ở mức thứ 3, sau 10 – 20 năm, doanh nghiệp không thể trả nợ thì ngân hàng sẽ trả thay.

Bên cạnh đó, nhà đầu tư cần quan tâm đến rủi ro tín dụng. Liên quan đến khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp và để đánh giá hoàn toàn năng lực trả nợ của tổ chức phát hành, nhà đầu tư cần tìm hiểu về lịch sử kinh doanh, sự phát triển hay các yếu tố rủi ro tài chính của doanh nghiệp đã diễn ra trong quá khứ cũng như hiện tại. Nếu không có khả năng tìm hiểu về báo cáo tài chính, nhà đầu tư có thể nhờ ngân hàng hay bên thứ ba hỗ trợ phân tích.

Nhiều nhà đầu tư không nắm rõ mô hình kinh doanh của doanh nghiệp mà mua trái phiếu chỉ vì lãi suất cao, nhưng họ chưa hiểu rõ rủi ro có thể gặp phải trong quá trình nắm giữ trái phiếu đó. Nói tóm lại, người cho vay phải hiểu khả năng trả nợ của người đi vay, nhận định được giá trị của tài sản thế chấp. Việc nâng cao tính chuyên nghiệp và tính tuân thủ pháp luật là rất quan trọng để đầu tư an toàn và hiệu quả.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Vâng thưa ông, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, kinh tế vĩ mô cuối năm 2022 và đầu năm 2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ hợp lý theo tinh thần chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả; các tổ chức tín dụng phát huy tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”. Ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tất cả những thông điệp này đều hợp lý, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có những nỗ lực trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và điều hành tiền tệ. Nhưng điều người dân và các nhà đầu tư luôn mong muốn nhìn thấy là hành động cụ thể của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính trong các vấn đề điều tra cho đến cải tổ thị trường, gây dựng lại niềm tin.

Đúng là trong cả năm 2022, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước bị dồn vào thế rất khó khăn. Một mặt phải đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 6,5 – 7%, trong khi đó phải kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4%, trong bối cảnh thế giới đang biến động dữ dội. Rõ ràng, việc điều hành sẽ rất khó suôn sẻ.

Có thể nói, Ngân hàng Nhà nước phải nhanh chóng đưa ra quyết sách dưới nhiều sức ép ghê gớm, như việc cố gắng kìm lãi suất và tỷ giá trong 3 quý đầu năm 2022, sau đó buộc phải tăng lãi suất điều hành cũng như tăng trần lãi suất huy động. Về phía tỷ giá, đã tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5%, chưa bao giờ có tiền lệ. Động thái tăng trần tín dụng thêm 1,5 – 2%, từ 14% lên 15,5 – 16% vào tháng 12/2022 cũng là bước điều hành chính sách tiền tệ tuy hơi chậm nhưng rất đáng hoan nghênh. Nếu mức tăng tín dụng thêm 2%, tương đương 240.000 tỷ đồng, cộng với khoản chưa sử dụng hết trong mức tăng tín dụng cũ 14%, thì nền kinh tế sẽ có khá nhiều vốn đổ vào, tuy nhiên vẫn là hướng vào các lĩnh vực ưu tiên.

PV: Vậy trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp bất động sản ra sao, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tôi cho rằng, tự thân doanh nghiệp bất động sản cần chủ động thay đổi. Thực tế, có rất nhiều sản phẩm bất động sản không phù hợp với túi tiền số đông người Việt Nam. Ở Hà Nội hay TP.HCM đều có rất nhiều bất động sản cao cấp, sang trọng, giá cao hơn cả Singapore hay Hồng Kông (Trung Quốc), như vậy liệu có phục vụ đại chúng hay không? Trong khi, GDP bình quân đầu người của Việt Nam ở mức hơn 4.000 USD, cứ cho thu nhập của một người dân bình thường là hơn 400 USD/tháng, thì phải rất lâu họ mới có thể mua được nhà, chứ chưa nói đến việc sở hữu hay sử dụng các tiện ích ở các khu vực cao cấp. Vậy nên, thị trường bất động sản, các doanh nghiệp bất động sản phải tự điều chỉnh để có cơ cấu sản phẩm phù hợp với xã hội.

Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng cũng nên giúp doanh nghiệp bất động sản làm ăn chân chính, bài bản, có những sản phẩm đóng góp cho vấn đề an sinh và sự phát triển kinh tế – xã hội, như những nhà kinh doanh, nhà xây dựng bất động sản với các sản phẩm nhà ở cho người thu nhập thấp, thu nhập trung bình, những chung cư trung cấp, nhà ở cho công nhân.

PV: Nhiều khó khăn vẫn đang hiện hữu, nên doanh nghiệp và thị trường vẫn cần thêm những giải pháp khác, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Trước hết, các ngân hàng thương mại cần sàng lọc, loại trừ đầu cơ nhưng vẫn nên đảm bảo đáp ứng được nhu cầu vay mua nhà ở cho người dân. Họ đang khao khát nhà ở, nhưng room tín dụng đã hết, thì phải làm gì? Có thể Ngân hàng Nhà nước nên ban hành ngay chính sách cho vay bất động sản mới, phù hợp với tình hình mới, trong đó vấn đề thẩm định tài sản đảm bảo phải được quy định chặt chẽ theo các chuẩn mực mới. Một đề xuất của tôi cho chính sách tiền tệ là Ngân hàng Nhà nước hãy khẩn trương giúp Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ kinh tế, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp và 15.000 tỷ đồng cho người dân vay mua nhà ở xã hội.

Về dài hạn, thị trường bất động sản cần đi vào quy củ và tìm đến nguồn vốn bền vững. Việt Nam đã nghĩ đến chứng khoán hóa nhiều năm nhưng chưa thực hiện được vì pháp lý và các vấn đề tài sản đảm bảo có sự nhập nhằng, thiếu nhiều công cụ và điều kiện cho vấn đề chứng khoán hóa. Đã đến lúc Việt Nam cần quyết liệt hơn để đưa công cụ tài chính là chứng khoán hóa các món vay bất động sản vào thực tiễn.

Các ngân hàng cũng như công ty tài chính cho vay ở Mỹ cũng không có tiền cho vay mấy chục năm, nhưng tại sao người dân vẫn được vay mua nhà từ 10 – 30 năm với lãi suất tuyệt vời 5,5% ở thời điểm hiện tại, không thay đổi trong cả 30 năm? Đó là nhờ việc các ngân hàng đóng gói lại những món vay đó, bao gồm cả tài sản đảm bảo và phát hành chứng khoán dựa trên gói đó, sau đó bán cho Chính phủ, các hãng bảo hiểm và các nhà đầu tư dài hạn.

Ngoài ra, quỹ tín thác REIT cũng là kênh đáng tham khảo. Đây là công cụ rất tốt để các doanh nghiệp bất động sản nhận vốn từ các quỹ REIT, thế nhưng kênh vốn này đang khá èo uột ở Việt Nam. Một trong những nguyên nhân là người dân chưa quen với việc đầu tư qua trung gian, giao tiền cho một công ty tín thác để họ đầu tư giúp. Thay vào đó, họ thường mua luôn bất động sản hoặc cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp. Nhưng để hướng đến tương lai bền vững thì cơ quan quản lý và nhà đầu tư cũng nên thay đổi tư duy. Có vậy mới phát triển được những thị trường vốn mới.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Ngà – Hà Trang
Thế Công

Bài viết cùng tác giả Thu Ngà – Hà Trang »

]]>
Bất động sản 24h: Bất động sản tạo cơ hội đầu tư dài hạn https://trithucdoanhnhan.net/bat-dong-san-24h-bat-dong-san-tao-co-hoi-dau-tu-dai-han/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:27 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3657

Bất động sản tạo cơ hội đầu tư dài hạn; Savills: 6 tháng cuối năm là thời điểm nhà đầu tư bất động sản ra quyết định… là những thông tin bất động sản đáng chú ý trong 24h qua.

Bất động sản tạo cơ hội đầu tư dài hạn 

Trên nhiều diễn đàn đầu tư, hiện có nhiều ý kiến cho rằng, thị trường bất động sản hiện vẫn chưa tạo đáy và nhà đầu tư nên chờ những đợt bán tháo, cắt lỗ sâu của những người trót sử dụng đòn bẩy tài chính lớn giai đoạn trước nay không còn chịu được áp lực trả lãi ngân hàng. Dẫu vậy, theo ghi nhận của người viết, hoạt động “gom hàng” trên thị trường bất động sản vẫn âm thầm diễn ra ở nhóm nhà đầu tư có sẵn tiềm lực.

Bất động sản tạo cơ hội đầu tư dài hạn 

Anh Nguyễn Trọng Hòa, sống tại TP. Thủ Đức, TP.HCM chia sẻ, từ sau Tết Nguyên đán, anh liên tục đi “săn đất” vùng ven TP.HCM và các tỉnh lân cận. Theo khảo sát của anh, giá đất tại huyện Củ Chi, Hóc Môn, Cần Giờ, Nhà Bè… đang giảm nhẹ so với đầu năm 2022.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Tình trạng “sốt nhanh, hạ nhiệt sốc” có lặp lại trong năm 2023?

Nhớ lại hồi đầu năm 2022, thị trường bất động sản đã chứng kiến tình trạng sốt đất cục bộ tại một số địa phương có thông tin quy hoạch hạ tầng như sân bay, khu công nghiệp, cầu đường. Tuy nhiên, từ giữa năm 2022, thị trường địa ốc đã “đảo chiều” và rơi vào trạng thái trầm lắng, thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả giai đoạn giãn cách vì dịch bệnh Covid-19 hai năm về trước. Minh chứng là theo báo cáo của Bộ Xây dựng, số lượng doanh nghiệp bất động sản tuyên bố phá sản, giải thể trong năm 2022 tăng khoảng 38,7% so với cùng kỳ năm trước. 

Tình trạng “sốt nhanh, hạ nhiệt sốc” có lặp lại trong năm 2023?

Thực tế cũng cho thấy, không ít doanh nghiệp đã buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động, cắt giảm nhân sự, cắt chi phí lương thưởng, truyền thông dự án… Một số doanh nghiệp còn gửi đơn “kêu cứu” lên cơ quan chức năng khi đứng trước tình trạng “đóng băng” các dự án, dòng tiền đổ về gần như âm.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Cổ phiếu bất động sản không cưỡng lại được xu hướng chung của thị trường

Sau 4 tuần tăng điểm liên tiếp, VN-Index đã có tuần điều chỉnh đầu tiên sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Trong tuần, VN-Index đã để mất 39,95 điểm, tương ứng với -3,6% để chốt tuần tại 1.077,15. Diễn biến giảm điểm đã xuất hiện ngay trong phiên đầu tuần, chỉ số sau đó đã có phiên hồi phục tuy nhiên áp lực bán đã kéo VN-Index giảm điểm trong 3 phiên còn lại của tuần.

So với diễn biến của các thị trường chứng khoán lớn trong tuần thì VN-Index có mức giảm mạnh thứ 3 trên thế giới và ngược chiều với hầu hết các thị trường châu Á, trừ 2 chỉ số quan trọng của thị trường Trung Quốc là Hangseng và Shanghai.

VHM và VIC là 2 cổ phiếu dẫn đầu diễn biến giảm điểm trong tuần với mức ảnh hưởng đến VN-Index lần lượt là -5,7 điểm và -3,1 điểm. Nhóm cổ phiếu ngân hàng cũng có 5 đại diện trong top đi xuống -28,1 điểm là VPB, TCB, ACB, CTG và BID. Chiều tăng điểm, trong top 10 xuất hiện 2 cổ phiếu thuộc nhóm vốn hóa trung bình là SBT và ACG với mức tăng lần lượt 11,8% và 13,4% trong tuần.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Savills: 6 tháng cuối năm là thời điểm nhà đầu tư bất động sản ra quyết định

Chia sẻ về thị trường bất động sản đầu năm 2023, ông Troy Griffiths, Phó Tổng Giám đốc, Savills Việt Nam cho rằng, năm 2023 là năm có nhiều triển vọng hơn 2022. Tuy nhiên, thị trường chưa thoát khỏi những thách thức vốn đã tồn tại khá lâu. Đó phải kể đến sự mất cân đối nguồn cung bất động sản.

Savills: 6 tháng cuối năm là thời điểm nhà đầu tư bất động sản ra quyết định

Sự sụt giảm nguồn cung mới ngày càng rõ nét. Điều này không đáng nói bằng sự mất cân đối giữa nguồn cung hạng phổ thông và bất động sản cao cấp, hạng sang. Theo ghi nhận của Savills, thị trường ngày càng thiếu hụt những bất động sản vừa túi tiền. Nhu cầu vì thế đẩy mạnh sang các vùng ven phụ cận là điều dễ hiểu. Suốt thời gian qua, tỷ lệ hấp thụ tốt rơi chủ yếu vào loại hình bất động sản tầm trung, giá hợp lý.

Xem thông tin chi tiết tại đây

Thị trường vốn cần điều chỉnh những bất cập trong quá khứ

Chưa bao giờ tinh thần điều hành chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả, với phương châm “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” và mục tiêu phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững lại được nhấn mạnh như thời gian qua và sẽ tiếp tục được Chính phủ thực hiện trong thời gian tới.

Phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững là một trong những mục tiêu trọng tâm đặt ra trong các văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế – xã hội, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Song song với đó, tín dụng ngân hàng cũng được kiểm soát một cách thận trọng, cùng với chính sách tài khóa linh hoạt.

Xem thông tin chi tiết tại đây

]]>