tiến sĩ nguyễn minh phong – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:52 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg tiến sĩ nguyễn minh phong – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 “Đầu năm tăng tốc nhưng cuối năm thì hết room, tăng giảm giật cục sẽ gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp”, TS. Nguyễn Minh Phong cảnh báo. https://trithucdoanhnhan.net/dau-nam-tang-toc-nhung-cuoi-nam-thi-het-room-tang-giam-giat-cuc-se-gay-kho-khan-cho-hoat-dong-cua-ngan-hang-va-doanh-nghiep-ts-nguyen-minh-phong-canh-bao/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:57 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1354

“Đầu năm tăng tốc nhưng cuối năm thì hết room, tăng giảm giật cục sẽ gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp”, TS. Nguyễn Minh Phong cảnh báo.

*********

Trong khi thị trường chứng khoán và trái phiếu đều gặp khó khăn, kênh tín dụng ngân hàng được xem là cứu cánh cho doanh nghiệp. Chiều 5/12/2022, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép nới room tín dụng cả năm lên 15,5 -16% thay vì 14% như ban đầu.

Nguyên tắc điều chỉnh tăng chỉ tiêu tín dụng theo hướng các tổ chức tín dụng có thanh khoản tốt hơn, lãi suất thấp hơn sẽ được tăng trưởng tín dụng cao hơn. Thống đốc yêu cầu các đơn vị cân đối vốn phù hợp để cấp tín dụng, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên, như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp phụ trợ. Việc mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc kiểm soát rủi ro kỳ hạn để đảm bảo thanh khoản, an toàn, đảm bảo khả năng chi trả, nhất là dịp Tết Nguyên đán.

Theo chuyên gia kinh tế – TS. Nguyễn Minh Phong, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai khá tốt vai trò điều hành trong giai đoạn kinh tế có nhiều biến động phức tạp năm vừa qua, cần linh hoạt hơn để góp phần duy trì động lực tăng trưởng kinh tế năm 2023.

TẠO SỰ CHỦ ĐỘNG CHO CÁC NGÂN HÀNG VÀ DOANH NGHIỆP

PV: Nhiều ý kiến cho rằng Ngân hàng Nhà nước có thể nới room tín dụng ngay từ tháng 10 khi tăng trưởng GDP đã vượt yêu cầu, lạm phát đang được kiểm soát tốt, trong khi doanh nghiệp đang gặp vô vàn khó khăn về vốn. Theo ông, làm sao để chính sách tín dụng nhịp nhàng, thuận lợi hơn cho doanh nghiệp? 

TS. Nguyễn Minh Phong: Khách quan mà nói thì Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện khá tốt hoạt động điều hành chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa phục hồi tăng trưởng sau đại dịch. Thế nhưng, riêng trong điều hành về room tín dụng cũng như hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thì có một số điểm cần lưu ý thêm:

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước buộc phải quy định trần room tín dụng và trong bối cảnh hiện nay vẫn phải tiếp tục duy trì, nhưng phương thức điều hành cần linh hoạt hơn theo 2 hướng: Một là giao tổng room từ đầu năm; Hai là điều hành trên cơ sở để cho các ngân hàng và khách hàng chủ động lập kế hoạch với nhau, chứ không phải giao cho một con số nào đó để rồi diễn ra tình trạng nửa đầu năm tăng tốc, cuối năm hết room hoặc bị siết lại một cách đột ngột, khiến cho doanh nghiệp có thể vỡ kế hoạch. Lý do là bởi doanh nghiệp không vay ngay một khoản lớn mà đầu tư tới đâu thì vay tới đó.

Vì vậy, nếu chỉ tính một mục tiêu chung thôi thì rất nhiều doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn ở giai đoạn cuối năm, chuyện đổ vỡ hoàn toàn có thể xảy ra và ảnh hưởng tới đời sống của hàng nghìn người lao động, tạo thành gánh nặng cho xã hội.

Tôi lưu ý thêm là năm nay có điểm rất đặc biệt ở chỗ hầu hết các doanh nghiệp đều bị hạn chế hợp đồng, nhất là các ngành công nghiệp dệt may, da giầy, gỗ… Do đó nếu không giải ngân kịp để doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch kinh doanh mới thì sẽ rất nguy hiểm, ảnh hưởng không chỉ trong năm nay mà sang cả năm 2023, không chỉ một nhóm doanh nghiệp mà cả nền kinh tế. Rõ ràng hoạt động điều hành room tín dụng, cộng với vấn đề thời kỳ phân bổ cần phải linh hoạt hơn, tạo sự chủ động hơn cho ngân hàng và doanh nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo phải thật linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, hướng dòng vốn đi đúng hướng. Mới nhất trong buổi làm việc tại tỉnh Bạc Liêu ngày 4/12, Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng tiến hành rà soát, phân loại các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng hoạt động hiệu quả, lành mạnh, an toàn, bền vững, nghiên cứu và thực hiện ngay việc nâng hạn mức tín dụng phù hợp, hiệu quả để vừa kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc làm, tập trung vào 3 động lực tăng trưởng là tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp trong lúc khó khăn. 

PV: Nhưng cũng có băn khoăn là nới room tín dụng thì lại phải đối diện với áp lực lạm phát và tăng dự trữ bắt buộc, thưa ông?

TS. Nguyễn Minh Phong: Thứ nhất, khi đã tính toán sớm và xác định được tổng room không đổi thì cơ bản không lo ngại tới kiểm soát lạm phát.

Thứ hai, ở giai đoạn tháng 10 tới nay các thống kê cho thấy lạm phát được kiểm soát khá tốt, vì vậy cần linh hoạt nới room cho những ngân hàng, doanh nghiệp, hợp đồng có triển vọng và kết quả kinh doanh tốt. Về nguyên tắc, lâu dài thì cần phải bỏ room, nhưng bỏ ngay thì chưa được vì có thể ảnh hưởng tới nỗ lực kiềm chế lạm phát, nhưng rõ ràng cuối năm rồi mà mức lạm phát khá thấp thì hoàn toàn có thể điều chỉnh và việc Ngân hàng Nhà nước cho phép nới room lên 15,5 – 16% là phù hợp lúc này.

Thứ ba, không chỉ room mà tốt nhất là Ngân hàng Nhà nước nên sử dụng nhiều công cụ dự trữ bắt buộc hơn và áp quy định hệ số an toàn kèm theo, sẽ giúp các ngân hàng tự điều chỉnh mà không lệ thuộc quá nhiều vào room. Nếu làm tốt công tác kiểm soát dự trữ an toàn, cộng với hệ số dự trữ bắt buộc thì Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát lạm phát rất tốt. Room chỉ là hình thức xin – cho thôi, còn tỷ lệ bắt buộc mà mỗi ngân hàng phải đảm bảo chính là hệ số an toàn trong các lĩnh vực, cộng với dự trữ bắt buộc. Tức là ngân hàng mà cho vay nhiều thì phải dự trữ nhiều hơn, cho vay ở những lĩnh vực mức độ an toàn không cao thì phải nâng hệ số đảm bảo an toàn. Với hướng quản lý như vậy thì các ngân hàng tự đảm bảo lợi ích của mình và làm tốt thì họ có thể tăng tỷ lệ cho vay.

Đấy là hướng thị trường và đảm bảo tính minh bạch cũng như tính chủ động chính sách của các ngân hàng và doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp thấy rằng hệ số an toàn cần phải cao thì sẽ thận trọng hơn. Ngân hàng cho vay thấy lĩnh vực nào rủi ro thì cũng phải thận trọng hơn, đặc biệt buộc phải đưa vào các yếu tố kiểm soát bắt buộc cao hơn. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm dần được những can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các ngân hàng, cũng có nghĩa là loại bỏ dần tình trạng điều hành mà nhiều người cho là “giật cục”.

Trong bối cảnh hiện nay, về cơ bản Ngân hàng Nhà nước cũng đã cố gắng điều chỉnh được hệ lãi suất liên ngân hàng không tăng quá nhanh, quá nhiều, quá mạnh. Tuy nhiên, tôi cũng xin lưu ý là sự điều chỉnh nên giãn ra chứ đừng để tăng dồn dập vì cùng thời điểm nới room như vậy sẽ lại tạo ra cuộc đua lãi suất huy động, ảnh hưởng trực tiếp tới lãi suất cho vay cũng như kiểm soát lạm phát.

PV: Đây quả là một bài toán rất khó thưa ông, bởi vì mục tiêu lớn nhất vẫn phải là giữ ổn định kinh tế vĩ mô, thời gian vừa rồi Ngân hàng Nhà nước đã hai lần phải điều chỉnh tăng lãi suất. Mặc dù tăng lãi suất sẽ có tác động nhất định tới hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng buộc phải điều chỉnh nhằm chống lạm phát tiền tệ?

TS. Nguyễn Minh Phong: Như chúng ta đã biết, trong tháng 9, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 4% lên 5%, lãi suất tái chiết khấu từ 2,5% lên 3,5%, đồng thời điều chỉnh tăng một số nhóm lãi suất khác. Đến cuối tháng 10, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5% lên 6%, lãi suất tái chiết khấu từ 3,5% lên 4,5%. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước với tổ chức tín dụng từ 6% lên 7%.

Diễn biến lãi suất huy động vốn trong nước cũng tăng, với lãi suất cho vay các kỳ hạn trên 12 tháng của nhiều ngân hàng đã lên tới mốc xấp xỉ 10%/năm, mặt bằng lãi suất tăng cao hơn khoảng 20% so với lãi suất huy động giai đoạn từ tháng 8 trở về trước, thậm chí hiện tại một số ngân hàng đã công bố lãi suất huy động vượt 11%.

Rõ ràng để đối phó chống mất giá đồng tiền Việt Nam thì Ngân hàng Nhà nước buộc phải tăng lãi suất, nhưng cái khó ở chỗ nếu tăng quá mức thì sẽ làm tăng lãi suất cho vay và dẫn tới tăng áp lực chi phí vốn, tăng áp lực lạm phát chi phí đẩy. Tức là các doanh nghiệp buộc phải tiếp cận vốn với lãi suất cao hơn, họ sẽ cộng với chi phí sản xuất để đưa ra giá thành, như vậy mặt bằng giá cả xã hội sẽ tăng lên do tổng đồng loạt mặt bằng lãi suất cho vay tăng. Như vậy, từ mục tiêu chống lạm phát tiền tệ, chúng ta lại tạo áp lực đẩy, lạm phát chi phí lên và sau đó lại làm mất hiệu lực kiểm soát lạm phát tiền tệ. Vì vậy, sự linh hoạt trong điều hành là rất quan trọng, nếu không tinh tế thì chúng ta chống được cái này lại hỏng cái kia và cuối cùng lạm phát vẫn lên.

Đấy là chưa kể nguy hiểm ở chỗ doanh nghiệp sẽ mất động lực đầu tư, nền kinh tế mất độ tăng trưởng. Vấn đề này thì Ngân hàng Nhà nước đang có sự cân nhắc, nhưng rõ ràng việc bơm ra liên tiếp các gói qua nghiệp vụ thị trường mở cũng là một cách để các ngân hàng có thể giảm bớt huy động trực tiếp trên thị trường. Thay vào đó có thể huy động thông qua việc cho vay lại của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất thấp hơn sẽ giảm bớt áp lực cho các ngân hàng thương mại và khi đẩy tới các doanh nghiệp thì cũng không phải chịu lãi suất cao. Việc này cũng thể hiện sự linh hoạt rất đáng ghi nhận trong điều hành của Ngân hàng Nhà nước.

CẦN CÓ CHÍNH SÁCH THÔNG THOÁNG, THU HÚT VỐN CHO CÁC DỰ ÁN NHÀ Ở XÃ HỘI

PV: Trên thực tế thì một số ngân hàng cũng đang phải chạy đua tăng lãi suất tiền gửi vượt 11%/năm. Nếu như xu hướng tăng lãi suất huy động tiếp tục kéo dài thì sẽ ảnh hưởng thế nào tới kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trong năm 2023?

TS. Nguyễn Minh Phong: Về nguyên tắc, lãi suất huy động tăng lên thì có hai tác động: tích cực và tiêu cực.

Tác động tích cực ở chỗ giúp những nhu cầu tiêu dùng không cần thiết bị dừng lại để gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Ở một khía cạnh tốt thì nó giúp giảm bớt các tiêu dùng xã hội, từ đó giảm bớt áp lực lạm phát cầu kéo.

Thứ hai, giúp các dòng tiền được sử dụng một cách hiệu quả hơn, thí dụ vay đầu tư bất động sản, chứng khoán sẽ phải thận trọng hơn, giúp dòng tiền được định hướng một cách thận trọng và đi vào lĩnh vực nào hiệu quả hơn, tránh đầu tư theo kiểu lướt sóng rủi ro như thời kỳ vốn vay rẻ. Từ đó, giúp giảm bớt áp lực thị trường chứng khoán, bất động sản nóng quá mức.

Tác động mặt trái cũng xảy ra ở hai điểm:

Thứ nhất, như tôi đã nói, đó là làm tăng chi phí đẩy, tăng áp lực lạm phát chi phí đẩy.

Thứ hai, làm giảm tổng cầu xã hội, điều này rất quan trọng. Và khi giảm tổng cầu của xã hội trong khi tăng trưởng dựa vào tổng cầu xã hội trong nước tới 60-70%, như vậy sẽ làm giảm động lực tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó thì có thể làm tăng dòng tiền chạy loanh quanh, rút từ ngân hàng này rồi gửi ngân hàng kia và tạo ra một cuộc đua bất tận, làm tăng hệ lụy của những mặt trái đã nêu ở trên. Đây là những điều cần phải hết sức thận trọng, nếu không các ngân hàng sẽ đổ vỡ kế hoạch cho vay và doanh nghiệp thì cuối cùng “trăm dâu đổ đầu tằm”, lại phải vay với lãi suất cao, thậm chí còn không vay được. Như vậy nó tạo thành những hệ lụy liên quan tới độ tăng trưởng, tới công ăn việc làm, an sinh xã hội, thu ngân sách và cả thu nhập cá nhân nữa.

PV: Việc tăng lãi suất chắc chắn sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt hiện nay gần như không thể phát hành trái phiếu. Đồng thời lãi suất tăng cũng khiến người mua nhà không dám vay, doanh nghiệp chưa bán được hàng thì không thể triển khai dự án mới và như vậy trở thành một áp lực vòng tròn. Theo ông, cần có giải pháp gì để hoá giải những áp lực này?

TS. Nguyễn Minh Phong: Đúng là với chừng ấy những khó khăn sẽ tạo nên áp lực vòng tròn, trong bối cảnh đấy thì doanh nghiệp cần hành động:

Thứ nhất là phải thận trọng trong vấn đề sử dụng vốn theo hướng giảm bớt dòng vốn ngân hàng đi để tăng huy động vốn nội bộ, vốn từ khách hàng, vốn gọi từ các nguồn khác kể cả nguồn trái phiếu trực tiếp.

Thứ hai là nhà nước phải nới thật nhanh các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội. Chúng ta đã có Nghị quyết 43 của Quốc hội, hiện nay đang triển khai khá chậm, cần phải được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.

Thứ ba là đáng lẽ phải nới phương án cho các doanh nghiệp huy động vốn từ người mua, mà có những quốc gia họ đã làm rồi. Thí dụ đối với những dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp thì cần đưa ra cơ chế kiểm soát và đẩy nhanh hơn tốc độ triển khai cũng như cho phép huy động vốn sớm từ người mua thay vì triển khai theo thủ tục rồi mới xác định đúng người mua ở. Làm được như vậy thì rõ ràng doanh nghiệp cũng được lợi, ngân hàng được lợi và người dân cũng được lợi và để triển khai được thì phải có chỉ đạo, tháo gỡ ở tầm Chính phủ.

Trân trọng cảm ơn ông!

Ngọc Quang

Bài viết cùng tác giả Ngọc Quang »

]]>
Nâng cao năng lực thể chế, tính minh bạch và niềm tin của nhà đầu tư https://trithucdoanhnhan.net/nang-cao-nang-luc-the-che-tinh-minh-bach-va-niem-tin-cua-nha-dau-tu/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:14 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2564

Năm 2022, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 8,02% là một kỳ tích, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch.

Năm 2022, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 8,02%, được coi là một kỳ tích, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch. Nếu quyết tâm nâng cao năng lực thể chế, tính minh bạch và niềm tin của nhà đầu tư, kinh tế Việt Nam hoàn toàn có thể giành thêm kỳ tích mới trong năm 2023.

********

Điểm sáng kinh tế Việt Nam 2022 và triển vọng 2023

Vượt qua những khó khăn sau hai năm liền ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam năm 2022 phát triển khá toàn diện, đạt và vượt kế hoạch 14/15 chỉ tiêu kinh tế xã hội được Quốc hội giao, GDP tăng trưởng 8,02%. Đặc biệt, số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt 148,5 nghìn; doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 59,8 nghìn. Đây là những kết quả rất ấn tượng, là nền tảng quan trọng để nền kinh tế vượt qua những khó khăn được dự báo trong năm 2023 và giành thêm những kỳ tích mới.

Trước đó vào tháng 9/2022, Ngân hàng Thế giới (WB) nhấn mạnh: Hơn 90% các nền kinh tế phát triển, 80% các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đều bị hạ dự báo tăng trưởng cho năm 2022 và 2023. 

Ngày 7/10/2022, WB nhấn mạnh: Thế giới đang đối mặt với “làn sóng thứ 5 của cuộc khủng hoảng nợ”, nhiều quốc gia đang phải đối mặt hoặc có nguy cơ mắc nợ trong bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng và lãi suất tăng cao. Ngay các nền kinh tế lớn cũng lúng túng trước bài toán tăng mạnh lãi suất có thể gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng việc thả lỏng cho lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ còn tồi tệ hơn.

Ngày 11/10/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cảnh báo: Thế giới đang ở trong giai đoạn “rất mong manh”, với lạm phát tiếp tục gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày một chậm lại (năm 2022 chỉ tăng 3,2% GDP, so với 6% GDP năm 2021 và năm 2023 chỉ còn là 2,7%); năm 2023 có 25% khả năng tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm xuống dưới mức 2% và hơn 1/3 nền kinh tế toàn cầu sẽ chứng kiến ​​hai quý liên tiếp tăng trưởng âm; cả 3 nền kinh tế lớn nhất là Mỹ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc đều sẽ đều tăng chậm lại.

Tuy nhiên, IMF và WB trong dự báo mới nhất đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 từ 7-7,5% GDP. Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 8 thế giới về đà phục hồi sau đại dịch COVID-19. Moody’s vào tháng 9/2022 đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định (chỉ kém mức đầu tư một bậc). Fitch cũng đang xếp Việt Nam ở hạng BB và triển vọng tích cực.  Việt Nam được kỳ vọng trở thành thị trường tiêu dùng toàn cầu lớn thứ 10 thế giới vào năm 2030, vượt qua cả Đức và Anh…

Theo báo cáo của Chính phủ trong phiên khai mạc ngày 20/10 kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV, năm 2022, kinh tế nước ta phục hồi mạnh mẽ và sẽ là năm đầu tiên trong giai đoạn 3 năm dịch Covid-19 qua, Việt Nam đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu kinh tế kế hoạch đặt ra, với tăng trưởng GDP khoảng 8%.

Đặc biệt, xuất khẩu của Việt Nam nổi lên như điểm sáng cả về kim ngạch, mức xuất siêu, cơ cấu hàng xuất và sự phục hồi thị trường. Chỉtrong 11 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 673,8 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, vượt kết quả năm 2021 (668,5 tỷ USD). Trong đó, xuất khẩu ước đạt 342,2 tỷ USD, tăng 13,4%; nhập khẩu ước đạt 331,6 tỷ USD, tăng 10,1%; xuất siêu ước đạt 10,6 tỷ USD. 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; trong số này có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD. Lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản Việt Nam có thể đạt mức 11 tỷ USD, tức về đích trước hẹn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là đạt 10 tỷ USD vào năm 2025.

Tất cả các thị trường xuất khẩu đều phục hồi so với năm 2021. Trong đó, các thị trường là đối tác ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Việt Nam có tăng trưởng ở mức cao, như: Liên minh châu Âu (EU) tăng 23,5%; khu vực Đông Nam Á tăng 23,3%.

********

Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới và 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từ một nước luôn thiếu đói, Việt Nam đã khẳng định vị thế cường quốc nông nghiệp, với hàng chục nông sản hàng hóa xuất khẩu thuộc tốp dẫn đầu thế giới, như lúa gạo, cafe, chè, cao su, hạt điều và tôm, cá basa… Việt Nam xuất khẩu nông sản năm 2021 đạt trên 48 tỷ USD và đang tự tin cán mốc xuất khẩu trên 50 tỷ USD trong năm 2022, với 7 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD, gồm: cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, sản phẩm gỗ…

Đặc biệt, nông nghiệp là ngành duy nhất xuất siêu từ khu vực kinh tế trong nước, với mức xuất siêu có năm tới 6-7 tỷ USD. Xuất khẩu nông sản tăng mạnh trực tiếp góp phần để Việt Nam đạt kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2022 trên 700 tỉ USD (tăng 7 lần so với năm 2007 và duy trì vị trí vững chắc trong xếp hạng cao của Việt Nam trên thế giới cả về xuất và nhập khẩu, với vị trí thứ 23 xuất khẩu hàng hóa và thứ 20 về nhập khẩu năm 2021, so với mức tương ứng của năm 2006 là thứ 50 và thứ 44).

Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được chính thức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ năm 2018, với trọng tâm là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Đến nay, cả nước đã có gần 7.500 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên được thị trường đón nhận tích cực, giúp mở rộng quy mô sản xuất, tăng giá trị sản phẩm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.

Thu từ cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt gần 264.000 tỷ đồng, tăng tới 25,1%; từ đó, góp phần thu ngân sách Nhà nước 11 tháng đã vượt hơn 16% so với dự toán, trong đó ngân sách trung ương tăng gần 15% dự toán.

Những thành quả trên là hội tụ sự nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, sự đoàn kết và ủng hộ của người dân, đặc biệt là từ việc chuyển hướng chiến lược từ “zero COVID” sang mở cửa, phục hồi kinh tế hiệu quả và bám sát các nguyên tắc nền tảng xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, nổi bật là xây dựng nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách ngoại giao độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, đối tác tin cậy, trách nhiệm vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển; hướng đến con người, lấy con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển.

********

Tăng cường kiểm soát, lành mạnh hóa thị trường tín dụng, trái phiếu và bất động sản

Năm 2023, Việt Nam đạt ngưỡng 100 triệu dân và quy mô GDP cán mốc 10 triệu tỷ đồng. Dù nền kinh tế Việt Nam đang có đà phục hồi mạnh mẽ, nhưng những bất định cũng gia tăng khiến tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu có thể chậm lại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa có đột phá rõ rệt.

Là nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam đang đối diện với áp lực điều hành giá, lãi suất, tỷ giá trước xu hướng lạm phát toàn cầu tăng cao và chính sách thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương Mỹ và châu Âu (hai thị trường chính chiếm 41% thị phần xuất khẩu của Việt Nam).

Sự cảnh báo nóng gắn với các thách thức về triển vọng kinh tế thế giới và nội lực kinh tế cùng những rủi ro và bất cập trong quản lý thị trường, đòi hỏi chúng ta kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế; triển khai đồng bộ chương trình phục hồi và các chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh giải ngân đầu tư công, phát triển và nâng cao năng lực thể chế, tính minh bạch và hiệu quả cho thị trường, củng cố tâm lý và niềm tin của nhà đầu tư.

Hơn nữa, thực tiễn cũng đòi hỏi cần có nhiều đột phá thực sự và đồng bộ, thực chất cả trong nhận thức và thể chế trong tháo gỡ điểm nghẽn về ổn định cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu (nổi bật là xăng dầu) cho sản xuất, đời sống; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường kiểm soát và lành mạnh hóa các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản và thị trường tín dụng, thị trường lao động, cũng như trong tái cơ cấu kinh tế và định hướng lại hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường thu hút FDI đầu tư mới và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước; tiếp tục đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kiểm soát nợ xấu, nợ thuế và chi phí vốn của doanh nghiệp; thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo…

Đồng thời, chủ động khai thác tốt hơn các cơ hội kinh tế gắn với việc tham gia các FTA thế hệ mới, từ mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam – Hàn Quốc và Mỹ – ASEAN mới được thiết lập cuối năm 2022, cũng như từ sự nồng ấm trở lại quan hệ Việt – Đức được ghi nhận từ sau chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Đức trung tuần tháng 11/2022.

Đặc biệt, tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường, chủ động đánh giá các tác động và thông tin dự báo tình hình thị trường hàng hóa trong nước và thế giới, chính sách, quy định mới của các quốc gia đến sản xuất, xuất, nhập khẩu của Việt Nam; tăng năng lực phản ứng chính sách và phản ứng thị trường linh hoạt, kịp thời và hiệu quả, hướng tới hài hòa về cơ cấu hàng hóa, cơ cấu thị trường và cán cân thương mại với từng thị trường, khu vực; hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn; hài hòa cơ hội tham gia và hưởng thụ thành quả tăng trưởng; Nâng cao hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa Việt Nam; phát triển xuất, nhập khẩu phải gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương theo tinh thần Chương trình hành động triển khai chiến lược xuất, nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 theo Quyết định số 1445/QĐ-TTg ngày 19/11/2022.

Phát huy các thành công, không chủ quan, tự mãn và các khai thác tốt hơn các động lực từ nền tảng đã có, chủ động nhận diện và linh hoạt vượt qua các thách thức, vừa chia sẻ niềm vui, tự tin và tự hào, vừa tỉnh táo nhận diện đúng để hành động đúng cả trong kinh doanh và trong quản lý, cả vĩ mô và vĩ mô, cả nước mắt và lâu dài, nhằm tiếp tục hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2023 mà Chính phủ đề ra, với tăng trưởng GDP khoảng 6,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD.

Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4-25,8%; Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5-6%; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 26,2%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27,5%; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 1-1,5%; Số bác sĩ trên 10.000 dân đạt khoảng 12 bác sĩ; Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,2% dân số; Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 78%.

Một yếu tố khác đó là cuộc xung đột Nga – Ukraina cũng đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng chung tới sự phát triển của kinh tế thế giới, giá nhiên liệu tăng cao đang có những tác động nhất định tới thị trường Việt Nam. Đồng thời, để đối phó với sự biến động thì một số quốc gia đã liên tục điều chỉnh lãi suất tiền tệ, cũng sẽ có tác động tới các hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần tiếp tục phát huy sức mạnh của các doanh nghiệp nội địa, nhằm tạo động lực trong năm 2023 và giai đoạn tiếp theo. Điểm thuận lợi là hiện nay Việt Nam có quỹ đầu tư công lên tới hơn 900 nghìn tỷ đồng, có nghĩa là chúng ta đang có nguồn lực rất mạnh, tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất mang tính then chốt là phải nâng cao được năng lực thể chế, các chính sách phải thật sự thông thoáng để khôi phục niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Vận dụng linh hoạt được các chính sách và nguồn lực hiện có, kinh tế Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được kết quả tăng trưởng 6,5 – 6,7% trong năm 2023. 

Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong

Thiết kế: Thế Công

]]>