tỉnh Hòa Bình – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sat, 26 Jul 2025 03:46:17 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg tỉnh Hòa Bình – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Phú Thọ: Xã Kim Bôi – Trung tâm kinh tế mới với kỳ vọng trở thành điểm đến du lịch chất lượng cao https://trithucdoanhnhan.net/phu-tho-xa-kim-boi-trung-tam-kinh-te-moi-voi-ky-vong-tro-thanh-diem-den-du-lich-chat-luong-cao/ Sat, 26 Jul 2025 03:46:13 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/phu-tho-xa-kim-boi-trung-tam-kinh-te-moi-voi-ky-vong-tro-thanh-diem-den-du-lich-chat-luong-cao/

Xã Kim Bôi, tỉnh Phú Thọ, một địa điểm mới được thành lập dựa trên việc sáp nhập thị trấn Bo, xã Kim Bôi và xã Vĩnh Đồng, đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn với những lợi thế vượt trội về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa đặc sắc của người Mường và nguồn nước khoáng quý giá. Với diện tích hơn 64km2 và dân số gần 3,6 vạn người, xã Kim Bôi trở thành trung tâm hành chính, kinh tế – văn hóa quan trọng của huyện Kim Bôi cũ.

Đảng bộ xã Kim Bôi hiện có 72 chi bộ trực thuộc với hơn 2.200 đảng viên. Đảng bộ đã triển khai nhiều giải pháp hiệu quả nhằm xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành. Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ được thực hiện một cách bài bản và kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương. Việc đánh giá chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên được gắn với sản phẩm công việc, tăng cường cơ chế đối thoại trực tiếp với nhân dân, qua đó tháo gỡ khó khăn và tạo sự đồng thuận trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.


Dân một xã mới của thành phố Hải Phòng sau sáp nhập Hải Dương trồng lúa kiểu gì mà bán thóc, bán gạo ai cũng muốn mua?
Dân một xã mới của thành phố Hải Phòng sau sáp nhập Hải Dương trồng lúa kiểu gì mà bán thóc, bán gạo ai cũng muốn mua?

Xã Kim Bôi đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Kim Bôi đạt tiêu chí cấp phường trong 5 năm tới. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cấp ủy đã tập trung nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, điều hành; huy động các nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội; triển khai hàng loạt công trình thiết yếu như mở rộng tuyến đường 12B, xây dựng kè sông Bôi, mở đường liên xã, xây mới các trường học, vỉa hè cây xanh… Tận dụng lợi thế về nguồn nước khoáng và cảnh quan thiên nhiên, Kim Bôi tập trung phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng gắn với đô thị hóa.

Tìm lại dòng sông cố xưa ở tỉnh Tiền Giang trước sáp nhập Đồng Tháp
Tìm lại dòng sông cố xưa ở tỉnh Tiền Giang trước sáp nhập Đồng Tháp

Cấp ủy và chính quyền xã đã chủ động cải thiện môi trường đầu tư, phối hợp chặt chẽ với các ngành và địa phương tháo gỡ khó khăn về mặt bằng và thủ tục pháp lý, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Hiện nay, xã Kim Bôi đã thu hút được 21 dự án ngoài ngân sách với tổng vốn đăng ký hơn 8.000 tỷ đồng, trong đó 18 dự án thuộc lĩnh vực du lịch, thương mại, nông nghiệp và 3 dự án phát triển đô thị. Các khu nghỉ dưỡng cao cấp như Mandala Retreats, Yasumi Onsen Resort, Venus Resort, An Lạc Eco Farm đã góp phần định hình rõ nét chiến lược phát triển Kim Bôi thành điểm đến chất lượng cao.

Người ta đang tới một làng cổ nổi tiếng ở tỉnh Khánh Hòa mới để xem điều này
Người ta đang tới một làng cổ nổi tiếng ở tỉnh Khánh Hòa mới để xem điều này

Bể bơi nước nóng Yasumi Onsen Resort, Khu Mớ Đá, xã Kim Bôi, tỉnh Phú Thọ, là một trong những điểm đến thu hút đông đảo du khách. Đặc biệt, dự án Quần thể khu đô thị sinh thái, vui chơi giải trí cao cấp và hệ thống cáp treo Cuối Hạ là bước đột phá lớn, tạo hiệu ứng lan tỏa, thu hút thêm nhiều nguồn lực đầu tư vào địa phương. Đến năm 2025, xã có khoảng 174 doanh nghiệp, 11 hợp tác xã, hơn 500 hộ kinh doanh đang hoạt động, cho thấy sự sôi động của nền kinh tế địa phương. Thu nhập bình quân đầu người đạt 63,5 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,5%.

Song song với phát triển kinh tế, xã Kim Bôi đặc biệt chú trọng gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường. Các lễ hội truyền thống như Lễ hội Mường Động, di sản văn hóa Mo Mường được khôi phục và gắn kết với phát triển du lịch, tạo điểm nhấn văn hóa cho vùng đất này. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, an sinh xã hội được chăm lo chu đáo. Cơ sở vật chất được nâng cấp; hệ thống trường lớp được đầu tư; các chính sách an sinh, hỗ trợ người nghèo, người yếu thế được thực hiện đầy đủ.

Bí thư Đảng ủy xã Kim Bôi Bùi Văn Điệp cho biết: Kế thừa thành tựu đạt được, cán bộ và nhân dân xã Kim Bôi đang đồng thuận thi đua thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, thúc đẩy chuyển đổi số, khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế địa phương. Mục tiêu là đến năm 2030 phát triển Kim Bôi theo hướng dịch vụ – du lịch bền vững, trở thành “Điểm đến chất lượng và bình yên”, có môi trường sống trong lành, các sản phẩm nông nghiệp sạch, và hệ sinh thái văn hóa đặc sắc.

Để tạo đột phá trong giai đoạn tới, xã Kim Bôi, tỉnh Phú Thọ mới đang tích cực phối hợp với các sở, ngành, đơn vị đẩy mạnh cải cách hành chính, hỗ trợ tối đa doanh nghiệp triển khai các dự án chiến lược. Một số dự án giao thông trọng điểm như: Đường liên kết vùng Hòa Bình – Hà Nội – Sơn La, đường liên kết các khu du lịch Suối khoáng Kim Bôi, nâng cấp khu xử lý rác thải… đang được tập trung thực hiện, mở ra không gian phát triển mới cho địa phương, hướng tới chuẩn đô thị, phát triển toàn diện trên nền tảng bảo tồn văn hóa và phát triển bền vững, hứa hẹn trở thành một trung tâm du lịch, dịch vụ đặc sắc của khu vực trong tương lai gần.

]]>
Mắt hồ trong như mắt mùa xuân https://trithucdoanhnhan.net/mat-ho-trong-nhu-mat-mua-xuan/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:16 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3874

Mỗi mùa nước cạn và trong, nhìn xuyên mặt hồ, vẫn gặp dấu vết làng bản xưa. Những đường quanh co, những mảng nhô lên, lõm xuống như mâm xôi, như lòng chảo…

Cô gái xứ Mường chở tôi bằng xe máy, băng đèo, vượt dốc, từ bản của cô đi khắp vùng Đà Bắc. Thỉnh thoảng, cô lại chỉ tay vào một chòm xóm nào đó mà nói: “Người dân ở đây cũng như nhà em, cũng từ lòng hồ đi lên sườn núi”. Thoạt đầu, tôi cứ giật mình thon thót. Con cháu vua Thủy Tề hay sao mà từ lòng hồ đi lên được? Thực ra, ấy là cách nói dân dã, nôm na. Lòng hồ trước đây vốn là một thung lũng lớn, cả xóm Mường trù phú định cư lâu đời. Khi có công trình thủy điện, làng bản đã di cư. Những ngôi nhà sàn lớn phải gấp rút tháo dỡ, may mắn thì dựng được ở đất mới quanh vùng, nhà nào biến cố đành thắt lòng thắt dạ mà bán đi. Mỗi mùa nước cạn và trong, nhìn xuyên mặt hồ, vẫn gặp dấu vết làng bản xưa. Những đường quanh co, những mảng nhô lên, lõm xuống như mâm xôi, như lòng chảo…

Xóm Đá Bia (xã Tiền Phong, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình) chiều cuối năm, trên bậc dốc dẫn lên từng ngôi nhà sàn là nồi rượu đang chưng cất tỏa men say sưa, váng vất. Thấy khách lạ ngang qua, trông hay hay con mắt, bà con hồ hởi vẫy, vào mời thử rượu. Rượu hãy còn nóng, rót tràn trề trông như cốc nước dừa. Trộm nghĩ, uống nhiệt tình bà con sẽ vui nên tôi làm một hơi, cạn sạch. Bà con tròn mắt hỏi Lò Thị Trang, cô hướng dẫn viên du lịch, người địa phương: “Ở đâu ra cái người này thế?”, rồi tất cả cùng cười, ấm nồng và sảng khoái. Từ bậc dốc ấy, phụ nữ Mường cứ vừa rót rượu vào can, vừa để mắt chăm lo cơm nước, nhà cửa… Loanh quanh có mấy con gà lông mướt mượt lục tục mổ thóc gạo rơi vãi, chắc cũng say cả hơi men nên cử động rất mơ màng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Lòng hồ sông Đà sớm chiều vương vất khói sương. (Ảnh: Lữ Mai)

Những ngày sau đó, khi đã rời xa, tôi vẫn luôn nhớ từng bậc dốc ngả nghiêng hơi rượu. Nếu bước tiếp thì sẽ lên nhà chính, bước xuống thì ra đường. Ngồi nguyên đó, bếp ánh lửa bập bùng, hướng mắt về phía trước, nhìn xuyên qua đường đất thì gặp cả lòng hồ sông Đà sớm chiều vương vất khói sương. Cũng vẫn gần ngay những bậc dốc đang bắc nồi rượu là các gian hàng “tự giác”. Bà con Đá Bia kể rằng, cách đây cả nửa thế kỷ, từ ngày còn quần tụ dưới thung lũng, đã có những gian hàng như thế rồi. Chẳng cầu kỳ gì cả, gian hàng đóng bằng tre nứa trong rừng, lợp lá cọ, ai có nông sản hay đồ gì trong nhà cần bán cứ viết giá lên tờ giấy dán vào hoặc để đồ chặn lên, ngay cạnh là cái giỏ nan. Đi làm nương cả ngày, tối mịt về ghé qua, không thấy đồ, thò tay vào giỏ mà lấy tiền về thôi. Tuyệt nhiên, chưa bao giờ xảy ra thất thoát, hiểu nhầm. Gian hàng bắt nguồn trong gian khó, các nhà đi làm nương xa nhà, lắm khi bắt cả đứa lớn nghỉ học trông những đứa bé, bìu ríu, lăn lóc trên chòi canh nương, nhà có gì muốn bán để thêm thắt đồng tiền bát gạo, đành cậy nhờ, dốc cả vào lòng tin trong thiên hạ.

Một buổi sáng, tôi bước lên con thuyền neo dưới bến, tự mở dây và cứ thế trôi trong sương. Trang từng nói: “Nước không lạnh như chị tưởng, chạm tay xuống sẽ thấy ấm lắm, ấm như đun ở bếp lên!”, nhưng tôi nào dám chạm tay. Tôi ngó xuống mặt hồ, cảm giác gặp những đôi mắt nhìn lên trời không chớp, muôn nếp nhà khói vẫn tỏa thành mây. Thuyền trôi qua sương, chạm vào bè cá của người dân. Cậu thanh niên đang lúi húi trên đó cất lời: “Chị không về được đâu, chờ em cho cá ăn xong em nổ máy thuyền em, kéo thuyền chị về”. Thức ăn của cá nuôi lồng là những mẻ cá nhỏ nhảy tí tách, cong cớn như phiến bạc…

Ngày xưa, lòng hồ là thung lũng trù phú của xóm Mường với hàng trăm nóc nhà sàn năm gian rộng rãi. Ngày mùa, lúa ngô trĩu trịt theo chân người từ nương rẫy về bản. Những điệu hát được cất lên trong lễ mừng cơm mới. Từ khi có công trình thủy điện, xóm Đá Bia cũng như nhiều làng bản khác phải di cư. Gia đình cô gái Mường, Lò Thị Trang dắt díu, bế bồng vào tận vùng kinh tế mới trong Tây Nguyên. Khí hậu khắc nghiệt, chưa kịp thích nghi thì cả người già và trẻ nhỏ trong nhà đã lăn ra ốm, thuốc thang chạy chữa liên miên. Đại gia đình lại quyết định quay về quê cũ. Đụng đến tiền chẳng có tiền, đụng đến gạo thì hết gạo, bố mẹ Trang cố chắt bóp từng đồng, khăn gói tàu xe về trước. Họ dựng lều ở lưng chừng núi, phát nương trồng lúa ngô, đến mùa thu hoạch, bán hết mới quay vào đón cha mẹ già và con nhỏ đoàn tụ. 

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Một gian hàng “tự giác” tại xóm Đá Bia. (Ảnh: Lữ Mai)

Giờ đây, thung lũng xưa đã thành lòng hồ sâu thẳm in bóng non cao. Trong câu chuyện với khách xa, Trang và bà con nơi đây đã không còn gọi lại tên thung lũng. Họ chỉ nói, mình là dân từ lòng hồ đi lên. Như thế có nghĩa, trong thái độ sống, hoặc là họ đã chấp nhận được thực tế khác xưa; hoặc cũng có thể họ đã cố chôn sâu nỗi niềm trong tâm khảm, không nỡ mang tiếc nuối, dằn vặt vào đời sống thường ngày. Một cách chôn sâu để mà bước tiếp. Thung lũng xưa, có người đi mãi, có người về lại, nhưng không ai từ vùng khác đến định cư. Hơn bốn mươi gia đình “từ lòng hồ đi lên” bắt đầu cuộc sống mới trên sườn đồi. Họ cùng nhau bạt núi, san nền làm nhà cửa, chuồng trại, vườn tược. Khó khăn, cực nhọc, nhưng sức sống chưa bao giờ vơi cạn ở xứ Mường.

Mẹ của Trang, bà Yệu, thuở nhỏ không được bố mẹ cho học hành đến nơi đến chốn, phải nghỉ học giữa chừng trông đàn em nheo nhóc trên nương ngô và trở thành lao động chính trong nhà. Ước mơ đèn sách trở thành một lời thề, một lời hứa bà đưa ra làm điều kiện với bất cứ người đàn ông nào định hỏi mình làm vợ. Nhờ đó, khi lấy chồng, con cái bà Yệu được khuyến khích học hành, con trai cả công tác trong ngành công an và Trang, con gái út tốt nghiệp ngành sư phạm, đang theo đuổi đam mê phát triển du lịch. Lò Thị Trang mang vẻ đẹp đặc trưng, cuốn hút của con gái xứ Mường với dáng dấp cân đối, khỏe mạnh, đôi mắt trong veo và nước da nâu giòn, ửng sáng. Cô và hai anh trai có tuổi thơ rất vất vả. Từ khi đại gia đình từ Tây Nguyên hồi cố, những đứa trẻ sống cùng ông bà nội, bố mẹ suốt mười ba năm lênh đênh trên thuyền bán hàng khắp hồ sông Đà.

Tốt nghiệp ngành sư phạm đúng lúc gia đình gặp biến cố lớn, bố bị gẫy xương, vôi hóa cột sống, mẹ bị tai nạn phải mổ tới ba lần, mãi mới đi lại được, Trang gác lại ước mơ, đi làm công nhân hơn một năm rồi trở về Đá Bia chăm sóc bố mẹ. Cô trải qua nhiều công việc, từ đi dạy hợp đồng ở trường học, tới nuôi cá trên nhà bè, làm nương, bán hàng online, hướng dẫn viên du lịch địa phương. Vốn mê du lịch, lại được một doanh nghiệp xã hội hỗ trợ cho vay 50 triệu đồng để phát triển du lịch cộng đồng, Trang bàn với gia đình mở dịch vụ lưu trú (homestay). Chỉ mẹ ủng hộ, tin tưởng cô con gái út, bố cứ can ngăn: “Thân con gái, cứ lo dạy học ổn định rồi lấy chồng, sinh con, đừng mơ mộng!”. Rồi cô gái xứ Mường vẫn tìm cách thuyết phục gia đình thế chấp sổ đỏ, vay hai trăm triệu ngân hàng. Có vốn dắt lưng, Trang gọi máy xúc, máy cẩu san nền, tìm mua lại nhà sàn của người dân về dựng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Mắt hồ trong như mắt mùa xuân

Thung lũng xưa, có người đi mãi, có người về lại, nhưng không ai từ vùng khác đến định cư. (Ảnh: Lữ Mai)

Tiền bạc vừa trao tay, nhà đang chuẩn bị tháo dỡ thì gặp đúng trận lũ lịch sử tháng 10/2017, đường sá sạt lở, cả tháng không thông được, cô gái mới ngoài hai mươi tuổi quyết định không trông chờ thời tiết nữa mà vẫn thuê thợ dỡ nhà, đưa từng “mảng, miếng” xuống thuyền, theo đường thủy chở về bến nhà mình, lại chật vật bốc từ thuyền lên. Thợ chỉ lắp dựng cơ bản, toàn bộ nhà cửa tự tay Trang thiết kế lại, mở thông các gian, đóng từng cánh cửa, bàn ghế, xây sửa bếp núc, vườn tược… Bây giờ, homestay mang dấu ấn nàng sơn nữ xứ Mường với cái tên thơ mộng “Lake View” trở thành điểm thu hút khách du lịch bậc nhất xóm Đá Bia. Cả xóm có năm hộ làm homestay nhưng các hộ dân khác đều tham gia vào tổ nhóm ẩm thực, văn nghệ, phương tiện xe ôm, hướng dẫn viên địa phương… phục vụ khách du lịch nhiều dịch vụ phong phú: Trải nghiệm lao động sản xuất, văn nghệ thôn bản, tắm thuốc, bè mảng, xe đạp, leo núi thám hiểm, đua thuyền kayak… Du lịch khiến bản Mường khởi sắc hơn, lấp lánh hơn.

Ngay cả khi ánh bình minh tỏa rạng, khói vẫn chưa tan mà cứ quyện lại giữa xanh trong mây nước. Sau tiếng quẫy lõm bõm của đàn cá tranh mồi, từng đàn vịt trắng phau rời nhà bè rẽ làn khói trắng bơi về bến nước. Thỉnh thoảng, có chợ sớm, bà con chòm xóm ríu ran từ mờ sáng. Mỗi nhà mang vài món hàng đi bán, nhân thể mua sắm thêm đồ sinh hoạt trong gia đình. Chợ họp trên thuyền. Con thuyền chính là một hiệu tạp hóa với đầy đủ nhu yếu phẩm cần thiết, có cả gian bán quần áo, đồ dùng… Ở khoảng trống gần mũi thuyền là để bà con bày bán thêm. Chợ dưới thị trấn thì xa lắm, ngót nghét bốn chục cây số, nên “chợ thuyền” mới là sinh hoạt chính ở đây. Theo con nước, chiếc thuyền tạp hóa đỗ mỗi ngày một bến, quanh lòng hồ sông Đà, định kỳ sẽ quay lại. Trẻ con mong ngóng chợ lắm, để được nhón tay xin bố mẹ tiền lẻ mua bánh rán, kẹo ngọt… Người già có khi chả mua bán gì, vẫn cứ mong chợ, để lụi cụi chống gậy bước lên thuyền lớn, ngắm người qua kẻ lại.

Nơi đây còn nhiều dấu ấn mộc mạc, chân thành. Cũng chính bà con xứ này ngỏ lại với tôi rằng, họ là người Mường Ạu Tá, một nhánh của Mường Bi. Thuở xưa, dân khắp vùng Tây Bắc cứ đồn thổi, Ạu Tá là nhánh Mường mạnh nhất về bùa ngải. Đi đâu hễ gặp người xứ này là đồng bào miền xuôi, miền ngược đều dựng hết tóc gáy. Hầu hết sách báo thường viết sai, thành Au Tá, Ao Tá… “Ạu” ở đây có nghĩa là “ông”. Chuyện chung quanh hai chữ Ạu Tá còn dài, mà những điều hay nhất và sâu nhất, hẳn rằng tôi chưa kịp biết.

Tôi hỏi bà Yệu, mẹ của Trang về bùa ngải, bà cười rất hiền, bảo rằng trong hư có thực, trong thực có hư. Bà từng chứng kiến một người dân nghèo lên nương, lúc về qua nương nhà khác có hái quả bí, định mang về cho đám con đông, và có lẽ cũng tặc lưỡi rằng nương bí lổn nhổn như cả trăm đàn lợn con kia, lấy một quả bõ bèn gì. Thế rồi, kỳ lạ thay, người ấy lại cứ ôm quả bí, bước vòng quanh nương, dấu chân nọ chồng lên dấu chân kia, sang tận ngày hôm sau mới có người từ xóm lên “giải” được. Người đàn bà nghèo cứ một mực cho rằng, rành rành trước mắt là đường về nhà đó thôi, sao lại quẩn quanh nương bí. Rồi nhà nọ, chẳng hiểu có “ếm” gì để giữ của không mà trời mưa gió, cả nhà đi nương chưa về, mẹ vợ chạy sang rút hộ quần áo vào kẻo ướt, lúc cả nhà trở về thấy bà mẹ vợ đứng thộn dưới mưa, trên tay là mớ quần áo ướt sũng.

Mắt hồ trong như mắt mùa xuân
Còn rất nhiều dấu ấn mộc mạc, chân thành ở nơi đây. (Ảnh: Lữ Mai)

Riêng bùa yêu, là ma trận thẳm sâu, ai cũng muốn né đi, không nói. Nhưng, hầu hết người xứ Mường đều cho rằng, mọi sự luôn có cái giá phải trả, nhất là ép uổng trái lương duyên, gây họa cho người. Cái giá ấy rồi thì ai cũng nhìn ra cả, cuộc đời còn dài, chạy đâu cho khỏi trời xanh. So với các nhánh Mường khác, người Mường Ạu Tá có trang phục, ngữ âm khác biệt hơn, nhìn qua là biết. Đặc biệt, đám tang Mường Ạu Tá đến giờ vẫn chia làm hai nhánh. Một nhánh sẽ dùng trống, chiêng, xòe “hoi” nhộn nhịp. Một nhánh u ám, lặng yên. Tương truyền, nhánh lặng yên u ám xưa kia thuộc họ quan lang giàu có, nhà có người mất thì làm đám tang to nhất vùng, chiêng trống vang xa làng bản bên còn nghe rõ. Nhưng cũng trong đám tang đó, họ bị trộm hết trâu bò, của nả mà không biết. Từ bấy, họ giữ lời nguyền về sự im lặng, không chiêng trống.

Dù nhánh nào thì những ngôi mộ xứ Mường đều có mái che như một ngôi nhà, đầy đủ đồ đạc như lúc người còn sống, những loài cây người qua đời từng thích cũng được trồng quanh mộ. Tôi đã đi thăm nơi an nghỉ của người Mường, gặp những ngôi mộ chung quanh trồng rất nhiều chanh, ớt, rau gia vị, cây dược liệu… và cứ khôn nguôi hình dung về sở thích của từng người đã khuất. Những công trình lớn trong nhà như chuồng trại, bè cá… không làm thật được thì thu lại thành mô hình rất tinh xảo, sinh động. Ngay cả khi người đã nằm sâu dưới tầng đất, cây cối, vật dụng vẫn kể chuyện lại với cuộc đời này. 

Ẩm thực Mường Ạu Tá cũng là nét đặc sắc không thể lướt qua, nhưng kể cho đầu cuối, đủ đầy thì không hề đơn giản. Nếu để lựa chọn, có lẽ đầu tiên và cuối cùng, tôi sẽ nhắc tới món bánh nẹt làm từ ngô hoặc sắn. Ấy là món ăn vào mùa giáp hạt của đồng bào, khi trong nhà eo hẹp lương thực. Bánh đơn thuần từ bột ngô, sắn nhưng gói ghém sự tảo tần, khéo léo và tinh tế của phụ nữ. Ngô già đẫy nắng đỏ au được ngâm rất công phu với phương cách bí truyền, giã nhẹ, chà xát cho bong sạch lớp vỏ bên ngoài mới cho vào hấp. Xong xuôi, chia ngô làm đôi, một phần giã mịn thành bột, phần kia giã rối, cuối cùng trộn lẫn vào nhau. Phụ nữ Mường giải thích, làm thế vừa tăng vị, vừa tăng độ tơi xốp, miếng bánh không bí bách, khô cứng. Những chiếc bánh hình tròn, hơi dẹt, trăm cái như nhau được hấp lên trước khi chiên rán. Dung dị, đơn thuần mà thơm ngon khó cưỡng. Bánh nẹt làm từ bột ngô vị ngầy ngậy, nồng nàn, no đủ. Bánh nẹt làm từ bột sắn hoang hoải, ngai ngái, gần gặn như ký ức nhọc nhằn.

Từ xứ Mường, tôi cay mắt nhớ về cha mẹ, về những khoảnh đồi hoang chờ tay người phát quang, nhổ cỏ lộ ra từng mảng đất nâu vàng trồng đầy khoai sắn. Cũng trên mảnh đất đó, hoa đào đã nở giữa núi đồi trông xa như mảnh chăn hồng phấp phới. Tôi kể với Trang về ký ức của mình, cô nói, hóa ra ở miền nào trên đất nước mình thì cũng thế, yêu thương và nuối tiếc cứ dâng đầy./.

]]>