trái phiếu doanh nghiệp – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Tue, 30 Sep 2025 09:09:04 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg trái phiếu doanh nghiệp – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Việt Nam cần 245 tỷ USD cho đầu tư hạ tầng: Đẩy mạnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp https://trithucdoanhnhan.net/viet-nam-can-245-ty-usd-cho-dau-tu-ha-tang-day-manh-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep/ Tue, 30 Sep 2025 09:09:00 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/viet-nam-can-245-ty-usd-cho-dau-tu-ha-tang-day-manh-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep/

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển hạ tầng tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu vốn đầu tư lớn. Giai đoạn 2025-2030, Việt Nam dự kiến cần tới 245 tỷ USD để đầu tư vào các công trình hạ tầng trọng điểm. Tuy nhiên, nguồn lực từ đầu tư công hiện tại chỉ có thể đáp ứng khoảng 70% nhu cầu vốn này, khiến phần còn lại phụ thuộc rất lớn vào khả năng huy động từ khu vực tư nhân. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang nổi lên như một kênh huy động vốn trung và dài hạn có tính khả thi cao, giúp giảm gánh nặng tài chính với ngân sách nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp hạ tầng tiếp cận nguồn vốn phục vụ đầu tư.

Nâng vai trò trung gian để thị trường trái phiếu doanh nghiệp bứt phá
Nâng vai trò trung gian để thị trường trái phiếu doanh nghiệp bứt phá

Các chuyên gia cho rằng, để thị trường phát triển ổn định và bền vững, cần duy trì kỷ luật thị trường trong toàn bộ quy trình phát hành và thanh toán trái phiếu. Các tổ chức phát hành phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ thanh toán đúng hạn và công bố thông tin đầy đủ, minh bạch. Vai trò giám sát của cơ quan quản lý cần được phát huy để tạo dựng một môi trường đầu tư tuân thủ chuẩn mực cao về quản trị tài chính và trách nhiệm pháp lý. Điều này không chỉ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư mà còn đảm bảo rằng các trái phiếu được phát hành một cách minh bạch và công bằng.

Bên cạnh đó, việc hoàn thiện nền tảng trong nước và mở rộng thu hút dòng vốn quốc tế cũng là yếu tố then chốt. Việt Nam đang đứng trước cơ hội rõ ràng để hiện thực hóa mục tiêu này. Tuy nhiên, để thực sự hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế, Việt Nam vẫn cần cải thiện một số điều kiện nền tảng, như lợi suất, hạ tầng thị trường và hệ sinh thái hỗ trợ nhà đầu tư. Việc nâng cao chất lượng và tính minh bạch của thị trường sẽ giúp Việt Nam tiếp cận được với nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn và hiệu quả cao hơn.

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò then chốt của xếp hạng tín nhiệm trong việc tạo ra mặt bằng giá tham chiếu cho thị trường. Bảo lãnh tín dụng cũng là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp chưa có lịch sử phát hành tiếp cận thị trường dễ dàng hơn. Việc tái cấu trúc thị trường trái phiếu doanh nghiệp cả về cơ chế phát hành, sản phẩm và vai trò của tổ chức trung gian đang là hướng đi khả thi. Điều này sẽ giúp thị trường trở nên đa dạng và linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu của cả doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Tóm lại, để hiện thực hóa mục tiêu huy động 245 tỷ USD cho phát triển hạ tầng, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và nâng cao tính minh bạch của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Việc duy trì kỷ luật thị trường, hoàn thiện nền tảng trong nước và mở rộng thu hút dòng vốn quốc tế sẽ là những bước đi quan trọng để đạt được mục tiêu này. Với sự nỗ lực và quyết tâm của cả chính phủ và doanh nghiệp, Việt Nam có thể tận dụng được tiềm năng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp để phát triển hạ tầng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Để biết thêm thông tin về thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam, vui lòng truy cập tài liệu này.

]]>
Tháng 8: Áp lực đáo hạn trái phiếu bất động sản lên 17.500 tỷ đồng https://trithucdoanhnhan.net/thang-8-ap-luc-dao-han-trai-phieu-bat-dong-san-len-17-500-ty-dong/ Tue, 09 Sep 2025 19:53:45 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/thang-8-ap-luc-dao-han-trai-phieu-bat-dong-san-len-17-500-ty-dong/

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang đối mặt với áp lực đáo hạn lớn trong tháng 8/2025. Theo báo cáo mới nhất từ FiinGroup, tháng 8 tới đây dự báo sẽ là thời điểm áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp lớn nhất trong năm, với tổng dòng tiền cần thanh toán ước đạt 48.100 tỷ đồng. Con số này tăng mạnh 78,4% so với cùng kỳ năm trước.

Đáng chú ý, lĩnh vực bất động sản tiếp tục là tâm điểm khi chiếm tới 63,8% tổng giá trị trái phiếu đến hạn trong tháng, tương đương khoảng 17.500 tỷ đồng. Đây là mức đáo hạn cao gấp 3,8 lần mức đáo hạn trung bình trong 7 tháng đầu năm. Điều này cho thấy áp lực lớn mà các doanh nghiệp bất động sản đang phải đối mặt trong việc thanh toán trái phiếu đáo hạn.

Trước những thách thức này, nỗ lực tháo gỡ pháp lý từ Chính phủ đã mở ra cơ hội hồi sinh cho các dự án đóng băng. Điều này giúp doanh nghiệp có tài sản đảm bảo để vay vốn hoặc phát hành trái phiếu mới. Hơn nữa, với lãi suất đang ở mức thấp, chi phí huy động vốn cũng giảm xuống. Tuy vậy, để thị trường trái phiếu trở thành kênh huy động vốn bền vững, doanh nghiệp cần chủ động tái cấu trúc tài chính.

Một yếu tố quan trọng khác là doanh nghiệp cần minh bạch hóa báo cáo, kiểm soát dòng tiền và nâng cao khả năng trả nợ. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp tăng cường uy tín mà còn tạo niềm tin với nhà đầu tư. Một số doanh nghiệp có tiềm lực đã bắt đầu quay lại thị trường, tập trung phát hành trái phiếu có tài sản đảm bảo hoặc dòng tiền hình thành trong tương lai.

Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc duy trì sự minh bạch và cải thiện quản trị rủi ro là chìa khóa để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn từ thị trường trái phiếu một cách bền vững. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn và ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nhìn chung, tháng 8/2025 sẽ là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, với những nỗ lực từ cả doanh nghiệp và Chính phủ, hy vọng rằng thị trường trái phiếu sẽ dần ổn định và trở thành kênh huy động vốn hiệu quả và bền vững cho các doanh nghiệp trong tương lai.

]]>
Cô gái Trung Quốc 30 tuổi từ bỏ công sở để tận hưởng cuộc sống https://trithucdoanhnhan.net/co-gai-trung-quoc-30-tuoi-tu-bo-cong-so-de-tan-huong-cuoc-song/ Tue, 12 Aug 2025 01:09:48 +0000 https://trithucdoanhnhan.net/co-gai-trung-quoc-30-tuoi-tu-bo-cong-so-de-tan-huong-cuoc-song/

Trình Nhã, một cô gái 30 tuổi sống tại tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc, đã tìm được cách tận hưởng cuộc sống mà không cần đến công việc “9 to 5” điển hình. Sau 4 năm làm việc cho một tập đoàn lớn trong lĩnh vực bán lẻ, cô đã quyết định nghỉ việc và tìm kiếm một cuộc sống ít căng thẳng hơn, tự do hơn. Với 3 nguồn thu nhập hàng tháng, trong đó có 2 nguồn thu nhập thụ động, Trình Nhã đã có thể trang trải cuộc sống một cách thoải mái.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Một trong những nguồn thu nhập của Trình Nhã đến từ việc cho thuê nhà tại tỉnh Phật Sơn, cách Quảng Châu khoảng 2 tiếng đi tàu. Căn nhà này là tài sản mà bà ngoại để lại cho Trình Nhã trước khi qua đời. Cô đã quyết định sang sửa căn nhà và cho thuê với giá 5.500 NDT/tháng (khoảng 19,5 triệu đồng). Đây là một nguồn thu nhập ổn định và giúp cô có thể tận hưởng cuộc sống mà không cần phải lo lắng về việc đi làm hàng ngày.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Nguồn thu thứ hai của Trình Nhã đến từ kênh blog trên Xiaohongshu mà cô đã xây dựng từ 4 năm trước. Mỗi tháng, Trình Nhã nhận được khoảng 4.000 – 5.000 NDT (14 – 17,5 triệu đồng) từ tiền quảng cáo và làm tiếp thị liên kết. Cô đã xây dựng được một cộng đồng lớn và có thể chia sẻ những trải nghiệm và kiến thức của mình với mọi người.

Căn nhà bà ngoại để lại giúp Trình Nhã có 1 nguồn thu nhập thụ động ổn định hàng tháng
Căn nhà bà ngoại để lại giúp Trình Nhã có 1 nguồn thu nhập thụ động ổn định hàng tháng

Khoản tiền cuối cùng và cũng là nguồn thu nhập thụ động thứ 2 của Trình Nhã đến từ một khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Với khoản đầu tư này, kỳ vọng của Trình Nhã chỉ đơn giản là an toàn sinh lời đều đặn. Trung bình mỗi năm, số tiền cổ tức mà cô nhận được là 10.000 NDT (khoảng 35 triệu đồng), tương đương 833 NDT/tháng (3 triệu đồng). Đây là một nguồn thu nhập ổn định và giúp cô có thể tận hưởng cuộc sống mà không cần phải lo lắng về việc đi làm hàng ngày.

Như vậy, trung bình hàng tháng, thu nhập của Trình Nhã dao động trong khoảng 13.500 – 14.500 NDT (47 – 51 triệu đồng). Để “giữ được tiền”, Trình Nhã cho biết hàng tháng cô chỉ tiêu tối đa 28 triệu đồng trên tổng thu nhập kiếm được. Cô đã có thể quản lý chi tiêu của mình một cách hiệu quả và tận hưởng cuộc sống mà không cần phải lo lắng về việc đi làm hàng ngày.

Chi phí lớn nhất của Trình Nhã là tiền thuê nhà, hiện tại cô đang thuê 1 căn hộ studio rộng 40 mét vuông tại Quảng Châu với giá 3.000 NDT (10,6 triệu đồng). Chi phí ăn uống, đi lại chiếm khoảng 2.500 – 3.000 NDT (9 – 10,6 triệu đồng) mỗi tháng. Phần còn lại, khoảng 2.000 – 2.500 NDT (7 – 8,8 triệu đồng), Trình Nhã dùng để mua sắm, gặp gỡ bạn bè hoặc thi thoảng đi du lịch.

Hiện tại ở tuổi 30, dù không có nhà cũng chẳng có xe hay bất kỳ tài sản lớn nào, nhưng Trình Nhã vẫn cảm thấy hài lòng với cuộc sống có thời gian để theo đuổi sở thích, đi du lịch, chăm sóc sức khỏe và hơn hết là cảm giác an tâm, không bị lệ thuộc vào bất kỳ điều gì. Cô đã tìm được cách tận hưởng cuộc sống mà không cần đến công việc “9 to 5” điển hình và có thể tự do làm những điều mình yêu thích.

]]>
“Điều quan trọng là khi đã phát hiện ra những điểm bất hợp lý thì phải nhanh chóng sửa chữa không nên để kéo dài gây ảnh hưởng tâm lý của nhà đầu tư và khiến thị trường vốn khó khăn hơn”, TS. Trần Minh Tuấn nói. https://trithucdoanhnhan.net/dieu-quan-trong-la-khi-da-phat-hien-ra-nhung-diem-bat-hop-ly-thi-phai-nhanh-chong-sua-chua-khong-nen-de-keo-dai-gay-anh-huong-tam-ly-cua-nha-dau-tu-va-khien-thi-truong-von-kho-khan-hon-ts-tran-m/ Sat, 11 Feb 2023 12:38:00 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1285

“Điều quan trọng là khi đã phát hiện ra những điểm bất hợp lý thì phải nhanh chóng sửa chữa không nên để kéo dài gây ảnh hưởng tâm lý của nhà đầu tư và khiến thị trường vốn khó khăn hơn”, TS. Trần Minh Tuấn nói.

*****

Chỉ còn 1 tháng nữa là kết thúc năm tài khóa 2022 và kết quả được dự đoán là sẽ rất xấu với hàng loạt doanh nghiệp, đặc biệt là với các công ty kinh doanh bất động sản. Với tình trạng hiện nay, doanh nghiệp đã triển khai phương án “hàng đổi hàng” và phải tính đến phương án phải bán tháo tài sản trả nợ. Trong cuộc trao đổi mới nhất với Reatimes, TS. Trần Minh Tuấn – Phó Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Chứng khoán Smart Invest nhận định, với tình hình hiện tại nhiều doanh nghiệp chưa thể thoát khỏi khó khăn vì thị trường chứng khoán lao dốc, không thể huy động vốn từ trái phiếu và room tín dụng thì hết.

Doanh nghiệp cần được chủ động linh hoạt về vốn, tránh lãng phí nguồn lực

PV: Nghị định 65/2022/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 153/2020/NĐ-CP được kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt cho thị trường trái phiếu, nhưng thực tế là vẫn còn những khó khăn, thưa ông?

TS. Trần Minh Tuấn: Như chúng ta đã biết Nghị định số 65 bổ sung một số điều của Nghị định số 153 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, điều đáng nói là Nghị định 65 quy định những vấn đề tương đối khó đó là nhà đầu tư chuyên nghiệp mới được mua trái phiếu phát hành riêng lẻ khác so với Nghị định 153. Cụ thể theo quy định cũ thì tài khoản giao dịch chứng khoán phải có 2 tỷ đồng tại thời điểm xác nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp, hoặc là có giá trị giao dịch chứng khoán chịu thuế thu nhập cá nhân trên 1 tỷ đồng ở năm gần nhất.

Tuy nhiên, Nghị định 65 thì lại quy định nhà đầu tư chuyên nghiệp phải có tài sản là giá trị cổ phiếu trên 2 tỷ đồng liên tục 6 tháng trong tài khoản. Vấn đề là khi cổ phiếu trong tài khoản tại thời điểm mua vào trị giá 2,5 tỷ đồng nhưng trong 6 tháng liên tiếp đó giá trị cổ phiếu bị giảm xuống dưới 2 tỷ đồng thì có thể không được coi là nhà đầu tư chuyên nghiệp. Đó là điều vô cùng oái oăm mà nó sẽ xảy ra với rất nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là trong giai đoạn vừa qua giá trị nhiều cổ phiếu giảm sâu tới 60 – 70%.

Vướng mắc này nó khiến cho phân khúc trái phiếu riêng lẻ bị co hẹp lại. Bất cứ một thị trường nào muốn phát triển tốt thì phải thu hút được đông người tham gia, nhưng khi bị bó hẹp lại thì gây khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà phát hành. Các nhà đầu tư có tài chính thì họ cũng không thể tham gia vì rất khó để đáp ứng được đủ điều kiện trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Vấn đề thứ hai là về sử dụng vốn, tôi cho rằng về mặt bản chất thì nên để cho doanh nghiệp thay đổi mục đích sử dụng vốn nếu được sự đồng ý của các trái chủ chứ không phải là các cổ đông, bởi vì vốn từ trái phiếu là do các trái chủ sở hữu. Nghị định 65 đã quy định phát hành trái phiếu có mấy mục đích cơ bản như: Triển khai dự án, đảo nợ…. trong đó đáng chú ý tới mục đích đầu tư dự án cần được làm rõ hơn. Đầu tư một dự án bất động sản hay đầu tư xây dựng nhà xưởng máy móc thiết bị sản xuất thì đương nhiên rồi, nhưng ngoài ra còn những hoạt động nào khác được coi là đầu tư dự án và những gì không được coi là đầu tư dự án, cần phải được quy định rõ.

Việc chưa quy định rõ khiến cho các công ty kiểm toán không xác nhận vào hồ sơ của doanh nghiệp là họ đã thực hiện đầu tư đúng mục đích hay chưa. Vốn phát hành trái phiếu thường là thu về một khoản lớn ngay lập tức, khác với khoản vay từ ngân hàng là giải ngân theo tiến độ dự án.

Đối với quy định doanh nghiệp không được thay đổi mục đích sử dụng khoản vốn phát hành trái phiếu có thể dẫn tới lãng phí nguồn lực, tính linh hoạt sử dụng vốn kém đi. Ban đầu, doanh nghiệp phát hành trái phiếu với mục đích đầu tư vào dự án A, nhưng trong quá trình triển khai có thể thay đổi hoặc thấy một cơ hội đầu tư khác tốt hơn. Vậy nên chăng cho phép doanh nghiệp tổ chức đại hội cổ đông xin ý kiến các trái chủ. Nếu biểu quyết mà các trái chủ đồng ý thì thực hiện chuyển đổi và báo cáo cơ quan chức năng, còn nếu các trái chủ không đồng ý thì phải thực hiện theo dự án cũ.

Khi tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp triển khai vấn đề này thì hoàn toàn có thể đặt ra một số quy định bắt buộc để doanh nghiệp phải thực hiện đảm bảo thông tin công khai minh bạch đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư trái phiếu.

Mặc dù còn những tồn tại như vậy, nhưng tôi cho rằng cũng không có gì đáng phải chê trách bởi vì việc xây dựng chính sách có tính thời điểm, ở giai đoạn đó cơ quan quản lý tính toán như vậy là hợp lý nhưng khi triển khai mới phát hiện ra những điểm bất hợp lý thì phải điều chỉnh lại cho phù hợp. Điều quan trọng là khi đã phát hiện ra những điểm bất hợp lý thì phải nhanh chóng sửa chữa không nên để kéo dài gây ảnh hưởng tâm lý của nhà đầu tư và khiến thị trường vốn khó khăn hơn.

Reatimes

PV: Chất lượng trái phiếu là vấn đề vô cùng quan trọng với nhà đầu tư và thị trường, vậy theo ông cần có quy định ra sao với các tổ chức phát hành?

TS. Trần Minh Tuấn: Tôi cho rằng khi nghiên cứu xem xét việc điều chỉnh lại các quy định trong Nghị định 65 thì nên quan tâm tới việc siết chặt đối với các nhà phát hành thay vì việc siết với nhà đầu tư. Khi siết tổ chức phát hành thì có tác dụng dẫn đến chất lượng của trái phiếu tốt hơn. Thí dụ doanh nghiệp phải đạt được các điều kiện như: Kết quả kinh doanh có lãi thể hiện rõ trên báo cáo tài chính và phải được kiểm toán; tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu an toàn; đặc biệt là phải có đánh giá xếp hạng đối với các đơn vị phát hành.

Khi đạt được những yêu cầu như vậy thì mới được phép phát hành. Và căn cứ trên các tiêu chí như vậy thì sẽ phân loại các đơn vị phát hành ở hạnh A, B, C và tương ứng ở khung lãi suất khác nhau. Như vậy nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu thì họ sẽ biết ngay khi anh xếp hạng C mà lãi suất ở mức rất cao thì cũng có nghĩa là nguy cơ rủi ro lớn.

Lãi suất sẽ biến động theo thị trường hoặc cố định, tuỳ theo cách triển khai của tổ chức phát hành, nhưng điều quan trọng là khi áp dụng đầy đủ các quy định đánh giá xếp hạng thì sẽ phân loại được đơn vị phát hành và lãi suất rất rõ ràng, nhà đầu tư dễ dàng nhìn nhận và đánh giá trước khi đưa ra quyết định. Trên cơ sở đó cũng sẽ giảm được rất nhiều những nguy cơ dẫn tới tranh chấp hoặc khiếu kiện phức tạp sau này.

Cần xem xét nới room tín dụng, không thể siết tất cả các dự án
bất động sản

PV: Gần đây thì nhiều người nói tới niềm tin của nhà đầu tư suy giảm mạnh thậm chí “rơi tự do”. Ông nghĩ sao về điều này?

TS. Trần Minh Tuấn: Sau khi các cơ quan chức năng tiến hành xử lý với những người đứng đầu các tổ chức, doanh nghiệp, mặc dù đó là việc rất cần thiết nhưng trên thực tế tâm lý của nhà đầu tư bị ảnh hưởng là điều không thể tránh khỏi. Tôi khẳng định rằng việc áp dụng các biện pháp cần thiết xử lý nghiêm minh với những trường hợp sai phạm là rất cần thiết, bởi vì những hành vi cố ý vi phạm pháp luật gây thiệt hại lớn trước mắt và lâu dài cho thị trường. Hơn nữa nếu không xử lý dứt điểm thì sẽ gây hiệu ứng xấu là nhiều cá nhân, tổ chức khác cũng làm những điều sai trái. Hậu quả lúc ấy sẽ khủng khiếp hơn rất nhiều, đó sẽ thực sự là những quả bom, khi nó phát nổ ở nhiều nơi, ở nhiều ngành thì vô cùng khó khăn để xử lý, ví như khi chữa cháy chỉ ở một điểm trong tòa nhà thì phải dập ngay, còn nếu để lan ra cả tòa nhà thì hậu quả vô cùng lớn.

Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu tiến tới việc xử lý hậu khủng hoảng, thí dụ như khi xử lý sai phạm đối với người đứng đầu doanh nghiệp thì cần phải triển khai đồng thời tất cả những việc hạn chế thấp nhất thiệt hại cho nhà đầu tư và thị trường, bởi vì nó dẫn tới những hệ lụy sâu rộng như bây giờ, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay chưa có sự chuẩn hoá quy định đủ minh bạch các thông tin, nhà đầu tư họ có nhiều kênh tìm hiểu và bây giờ cứ liên quan tới đất đai là lo ngại, bởi vì đây là lĩnh vực rất nhạy cảm. Có thể ngay bây giờ không có vấn đề gì, nhưng vài tháng sau lại có sự cố thì nhà đầu tư dễ thiệt hại. Tôi chỉ lấy thí dụ doanh nghiệp đang triển khai 3 dự án, họ chỉ sai phạm ở 1 dự án và bị truy tố tạm giam phục vụ điều tra, như vậy là toàn bộ 3 dự án bị đình trệ và khi xảy ra như vậy thì gần như toàn bộ nhân viên bên dưới tháo chạy, không có mấy người tiếp tục ở lại doanh nghiệp đó.

Đó là một thực tế và không chỉ mất nhân sự không ai muốn tiếp tục công việc tại doanh nghiệp ấy mà ngay cả những đơn vị kiểm toán họ cũng từ chối kiểm toán đối với đơn vị ấy vào trường hợp của FLC là một thí dụ điển hình, bởi vì họ lo ngại lỡ có điều gì đó thì sẽ bị quy trách nhiệm. Và khi doanh nghiệp niêm yết mà không thực hiện kiểm toán được thì hoàn toàn có thể bị dừng giao dịch mà điều này thì gây thiệt hại rất lớn cho cả các nhà đầu tư vào thị trường. Đấy là thực tế hiện nay và vì thế các cơ quan quản lý có lẽ cần phải tìm ra giải pháp để tháo gỡ căn cơ lâu dài.

Reatimes

PV: Rõ ràng những tồn tại thực tế mà ông vừa nêu đang ảnh hưởng tới niềm tin của nhà đầu tư và dẫn tới việc các doanh nghiệp không phát hành được trái phiếu để đảo nợ cũng như triển khai dự án. Và không chỉ có doanh nghiệp, nhà đầu tư, thị trường cũng chịu ảnh hưởng, thưa ông?

TS. Trần Minh Tuấn: Đây là tâm lý không thể tránh khỏi trong các hoạt động đầu tư với bất kỳ thị trường nào khi có sự cố xảy ra với những doanh nghiệp lớn có ảnh hưởng rất rộng liên quan tới nhiều hoạt động của thị trường. Trong thời gian vừa rồi thì cơ quan quản lý đã loay hoay tìm cách sửa Nghị định 153, nhưng rồi khi ban hành Nghị định 65 thì vẫn còn những khó khăn cho các hoạt động phát hành trái phiếu cũng như là hoạt động của nhà đầu tư và tiếp tục phải nghiên cứu điều chỉnh. Tôi mong rằng, các cơ quan quản lý cần phải hành động nhanh hơn nữa, bởi vì Nghị định 65 ban hành đã gần 3 tháng rồi, càng kéo dài càng gây ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư và càng gây khó khăn cho doanh nghiệp vì họ không biết tìm đâu ra vốn.

Thực tế còn nhiều doanh nghiệp vẫn đang kinh doanh ổn định nhưng trong lúc thị trường chung đi xuống thì tâm lý của nhà đầu tư rất lo lắng và họ phải cân nhắc rất kỹ, đa phần sẽ giữ tiền và tiếp tục chờ đợi và càng kéo dài thì doanh nghiệp càng khó khăn, gây ảnh hưởng chung đến thị trường cũng như là tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với các dự án được triển khai ở mảng bất động sản hoặc xây dựng hạ tầng có liên quan đến hoạt động đầu tư công thì nhà đầu tư họ có lý do để băn khoăn bởi vì họ không biết rằng rồi đây lãnh đạo của những doanh nghiệp này có vướng vào sai phạm gì không.

Reatimes

PV: Với những diễn biến hiện nay, ông có dự báo gì về thị trường năm 2023 cũng như khuyến nghị với cơ quan quản lý?

TS. Trần Minh Tuấn: Về mặt kỹ thuật, sau một giai đoạn phát triển thị trường chứng khoán đi xuống và như năm 2022 thì không hỗ trợ được cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn này các kênh huy động vốn khác lại cũng gặp khó khăn nên kết quả kinh doanh kém, dẫn tới sức khỏe của doanh nghiệp tiếp tục suy giảm. Những diễn biến hiện nay cho thấy thị trường bất động sản năm 2023 vẫn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, không chỉ là vấn đề dòng vốn với doanh nghiệp mà cả ở phía người mua khi khi room tín dụng bị khống chế và siết chặt. Đặc biệt đáng chú ý là sẽ có khoảng 58 nghìn tỷ đồng trái phiếu đến hạn phải thanh toán vào cuối năm 2022 cũng tạo áp lực cho nhiều doanh nghiệp bất động sản. Có nhiều giải pháp mà doanh nghiệp đã tính đến như: Hàng đổi hàng, giãn nợ và trả một phần… Tóm lại là việc giải quyết các khoản trái phiếu đến hạn thanh toán là điều đương nhiên doanh nghiệp sẽ phải thỏa thuận với các trái chủ nhằm tránh đổ vỡ lớn hơn.

Một số nhà đầu tư có đặt ra câu hỏi với tôi rằng liệu các cơ quan quản lý có triển khai biện pháp nào đó giải cứu bất động sản không? Tôi cho là không! Chính sách điều hành vĩ mô là sửa đổi và điều chỉnh các quy định cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường, tạo sự thuận lợi cho cả doanh nghiệp và nhà đầu tư, tạo sự thông thoáng cho hoạt động phát hành trái phiếu và tín dụng, bởi vì quy mô của thị trường trái phiếu và cổ phiếu hiện rất lớn, khi mà hai thị trường gặp khó khăn như giai đoạn này thì gánh nặng sẽ đổ dồn vào tín dụng.

Mặc dù không thể phủ nhận ngành bất động sản đã và đang đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế, nhưng thực tế là giai đoạn vừa qua dòng vốn cũng đã đổ nhiều vào các dự án nghỉ dưỡng, du lịch, căn hộ cao cấp… và khi thị trường đi xuống thì không thể bán được hàng, khó khăn về đáo hạn vốn sẽ ập đến. Điều này kéo dài sẽ gây ra sự mất cân bằng về dòng vốn, vì thế chắc chắn là cơ quan quản lý sẽ siết chặt, các ngân hàng sẽ không bơm vốn vào những dự án như thế này ở giai đoạn tới.

Theo tôi thì việc siết tín dụng đối với kinh doanh bất động sản cao cấp hay đất nền là cần thiết, vì chúng ta thấy được tính đầu cơ rất cao và đẩy giá vọt lên nhanh như thời gian qua, gây nhiễu loạn thị trường. Đối với nhóm nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở cho người thu nhập thấp chắc chắn sẽ được quan tâm và phát triển trong giai đoạn tới và đây cũng là mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra và đang kiên trì để thực hiện. Nó có liên quan chặt chẽ tới vấn đề an sinh xã hội là nền tảng phát triển kinh tế – xã hội lâu dài. Nhưng có một vấn đề hiện nay tồn tại cần được tháo gỡ đó là không nên đánh đồng tất cả các dự án bất động sản, đối với các dự án nhà ở thì nên phân loại để có chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho người dân. Nếu vẫn cứ siết chặt thì sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp và người dân có nhu cầu ở thật. Nguồn cung kém thì sẽ đẩy giá nhà ở tăng cao.

Vấn đề cuối cùng, chúng tôi cho rằng khi đã giao cho các ngân hàng một tỷ lệ tín dụng nhất định hàng năm thì hãy để cho các ngân hàng được chủ động đối với các hoạt động của họ chứ không nên chia nhỏ, cắt khúc ra đối với các nhóm khác nhau và lại điều chỉnh ở từng cái giai đoạn mà chúng ta quen gọi là “giật cục”. Như vậy thì rất là khó cho hoạt động của các ngân hàng và có thể dẫn tới tình trạng khó khăn trong tiếp cận vốn của các doanh nghiệp.

Trân trọng cảm ơn ông!

Bài viết cùng tác giả Ngọc Quang »

]]>
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế https://trithucdoanhnhan.net/thi-truong-trai-phieu-la-kenh-huy-dong-von-hieu-qua-trong-nen-kinh-te/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:59 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1320

Để có nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, các doanh nghiệp bất động sản cần xem xét kỹ và thực hiện các điều kiện để có thể tiếp tục phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ.

Những năm gần đây, trái phiếu đang dần trở thành một kênh huy động vốn của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp bất động sản. Trong năm 2021, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành tổng cộng 722.700 tỷ đồng, tăng 56% so với năm 2020. Tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp lưu hành cuối năm 2021 đạt khoảng 1,4 triệu tỷ đồng (tương đương tốc độ tăng trưởng bình quân 46%/năm trong giai đoạn từ 2017-2021). Theo đó, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã tăng mạnh, từ 4,9% GDP năm 2017 lên tới 16,6% GDP vào năm 2021.

Trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2021, các doanh nghiệp bất động sản là nhóm phát hành nhiều nhất với 318.200 tỷ đồng (tăng 66,3% so với năm 2020) và chiếm 44% tổng lượng phát hành năm 2021. Kế đến, các ngân hàng phát hành tổng cộng 226.400 tỷ đồng, chiếm 31,3% tổng lượng phát hành và tăng 73% so với năm 2020 (một phần do nhu cầu cần nguồn vốn để bù đắp lượng trái phiếu mua lại trước hạn lên tới 67.000 tỷ đồng).

Ngoài ra, các nhóm ngành năng lượng khoáng sản, định chế tài chính phi ngân hàng, phát triển hạ tầng phát hành từ 28.000 tỷ đồng đến 30.000 tỷ đồng, chiếm trên dưới 4% tổng lượng phát hành; trong đó lượng phát hành của các định chế tài chính phi ngân hàng (chủ yếu là các công ty chứng khoán) và nhóm phát triển hạ tầng tăng cao so với năm 2020 (lần lượt tăng 152% và 225%).

Tuy nhiên, có một thực tế đáng lo lắng, khi tăng trưởng mảng trái phiếu doanh nghiệp đóng góp nhiều vào mức tăng trưởng tín dụng năm 2021 ở nhiều ngân hàng như TCB, VPB, MBB, TPB. Việc một số ngân hàng ồ ạt mua trái phiếu doanh nghiệp thời gian qua có thể có cả mục đích đảo nợ, cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp. Nói cách khác, đây là một cách ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau dùng trái phiếu doanh nghiệp để đảo nợ.

Đặc biệt, trong thời gian qua, các loại trái phiếu doanh nghiệp được phát hành tại Việt Nam hầu hết đều chưa được xếp hạng tín nhiệm, nhiều loại trái phiếu không có tài sản đảm bảo; một số doanh nghiệp công bố huy động vốn trái phiếu với lãi suất cao, nhưng không có phương án kinh doanh khả thi rõ ràng, do vậy rất khó có khả năng đảm bảo trả được nợ gốc và lãi sau này.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn đang tiềm ẩn rủi ro đối với một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu với lãi suất cao. Khi doanh nghiệp bất động sản gặp trục trặc thì ngân hàng và cả nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ nắm giữ các trái phiếu doanh nghiệp đều có thể bị vạ lây, thậm chí phá sản. Tất nhiên, trong ngắn hạn, rủi ro vỡ nợ đến từ các doanh nghiệp này là chưa nhiều khi thời điểm đáo hạn của các trái phiếu doanh nghiệp hầu hết vào năm 2024 – 2025.

Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế

Trước sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã xuất hiện những rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy trong thời gian gần đây, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã liên tiếp phát đi thông điệp cảnh báo; đồng thời triển khai những hành động quyết liệt để thị trường tiềm năng này phát triển ổn định, an toàn, hiệu quả.  

Ngay từ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp manh nha những rủi ro, cuối năm 2019, Bộ Tài chính đã kịp thời phát đi những cảnh báo đầu tiên. Tiếp đó, trong bối cảnh thị trường này tăng mạnh, trong năm 2020 và năm 2021, Bộ Tài chính đã liên tiếp gia tăng tần suất và cường độ cảnh báo rủi ro. Trong hai năm trở lại đây, với nhiều hình thức khác nhau, các thông tin cảnh báo về rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã được nhiều cơ quan thông tấn, báo chí đăng tải rộng khắp, truyền thông điệp của các cơ quan quản lý, cũng như các chuyên gia uy tín.

Bộ Tài chính đã yêu cầu Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Vụ Tài chính ngân hàng, Thanh tra Bộ Tài chính, Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam,… đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp để đảm bảo thị trường này trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, hiệu quả và hạn chế tối đa rủi ro cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, tính chủ động và sự kiên quyết, việc kiểm tra sâu sát và chế tài xử lý với các chủ thể phát hành của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chưa thực sự nghiêm khắc.

Khung pháp lý quản lý trái phiếu doanh nghiệp liên tục được hoàn thiện. Theo quy định tại Luật Chứng khoán năm 2019 và Luật Doanh nghiệp năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 về chào bán và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế và Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán quy định về chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng. 

Để quản lý tốt trái phiếu doanh nghiệp, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 57/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 20/7/2021 quy định lộ trình sắp xếp lại thị trường các loại chứng khoán, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp sẽ hoạt động trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong năm 2022. Theo đó, chậm nhất đến hết ngày 31/12/2022, HNX thống nhất tổ chức thị trường giao dịch trái phiếu theo quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bộ Tài chính đã tiến hành kiểm tra một số doanh nghiệp có khối lượng phát hành trái phiếu lớn, phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo và tình hình tài chính yếu kém.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đề nghị Ngân hàng Nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Công an thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp bất động sản huy động vốn từ phát hành trái phiếu và phối hợp chia sẻ thông tin kết quả kiểm tra, giám sát.

Đáng lưu ý, trước thực tế, nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu với khối lượng lớn nhưng không phục vụ cho sản xuất kinh doanh, trên cơ sở công tác quản lý giám sát và kết quả kiểm tra về tình hình phát hành, cung cấp dịch vụ về trái phiếu doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đánh giá để đề xuất sửa đổi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP theo hướng hạn chế hiện tượng tiêu cực, tăng cường công khai minh bạch trong huy động vốn trái phiếu. 

Ngày 16/9/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung nhiều điều, khoản so với Nghị định 153. Như quy định về điều kiện phát hành trái phiếu tuân thủ quy định tại Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Nghị định 65 chỉ điều chỉnh một số quy định về hồ sơ, để đảm bảo tăng tính minh bạch của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tăng tính tiếp cận thông tin của chủ thể phát hành và của nhà đầu tư. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm về công bố thông tin của nhà phát hành cho nhà đầu tư và trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và các quy định khác.

Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả trong nền kinh tế
Nguồn cung thị trường bất động sản đang phụ thuộc vào nguồn vốn cho các doanh nghiệp, trong đó, vốn trái phiếu rất quan trọng. (Ảnh minh họa: Reatimes)

Nghị định 65/2022/NĐ-CP bổ sung quy định về hồ sơ chào bán trái phiếu gồm: Kết quả xếp hạng tín nhiệm trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của Luật Chứng khoán và lộ trình thực hiện như quy định đối với chào bán trái phiếu ra công chúng (từ 01/01/2023); hợp đồng ký kết với đại diện người sở hữu trái phiếu trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân và xác nhận của ngân hàng thương mại về việc mở tài khoản nhận tiền mua trái phiếu.

Như vậy, nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định bổ sung yêu cầu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp trong hồ sơ phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ theo từng trường hợp và lộ trình như đối với trường hợp phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng theo các quy định hiện hành. Đồng thời, nghị định cũng quy định doanh nghiệp được phát hành trái phiếu riêng lẻ để cơ cấu lại nợ doanh nghiệp.

Nghị định bổ sung quy định doanh nghiệp phải mua lại trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành; trước và sau khi phát hành phải có công bố thông tin về khả năng đảm bảo thanh toán, báo cáo kiểm toán tình hình tài chính và kiểm toán tình hình sử dụng vốn theo mục đích phát hành đã được công bố. Với quy định này, quyền lợi của nhà đầu tư trái phiếu được đảm bảo ở mức độ cao hơn.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP cũng bổ sung quy định tài sản bảo đảm của trái phiếu phải được định giá và đăng ký biện pháp bảo đảm. Đồng thời quy định: Nội dung Chuyên trang thông tin về trái phiếu doanh nghiệp tại Sở Giao dịch chứng khoán sẽ bổ sung công bố một số chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp phát hành, thông tin về các doanh nghiệp không thanh toán đầy đủ gốc, lãi trái phiếu, sử dụng vốn trái phiếu không đúng mục đích để nhà đầu tư và thị trường biết được thông tin của doanh nghiệp phát hành. 

Nghị định bổ sung các quy định để tăng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cá nhân khi mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, hạn chế tối đa nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ gian lận để mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Trong đó, việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bằng danh mục chứng khoán phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình từ 2 tỷ đồng tối thiểu trong vòng 180 ngày bằng tài sản của nhà đầu tư, không bao gồm tiền vay. Thời hạn có hiệu lực của giấy chứng nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp chỉ là 3 tháng thay vì 1 năm như trước đây.

Khi mua trái phiếu, nhà đầu tư phải đọc, hiểu và ký văn bản xác nhận đã tiếp cận đầy đủ các tài liệu về trái phiếu dự kiến mua và hiểu biết pháp luật, chấp nhận rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ (cả trên thị trường sơ cấp và thứ cấp); tổ chức cung cấp thông tin và tổ chức xác nhận tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp cùng ký xác nhận lên văn bản này về việc đã cung cấp đầy đủ thông tin và hồ sơ cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư không được phép bán hoặc cùng góp vốn đầu tư trái phiếu với nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Nghị định bổ sung quy định nhằm tăng cường tính minh bạch và tuân thủ pháp luật của các tổ chức cung cấp dịch vụ, như: Đại lý phát hành là công ty chứng khoán được Ủy ban Chứng khoán nhà nước cấp phép hoặc ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Tổ chức đấu thầu, bảo lãnh, đại lý phát hành phải xác nhận về việc doanh nghiệp phát hành đã nhận đủ tiền thu từ phát hành trái phiếu. Tổ chức cung cấp dịch vụ không được là người có liên quan của doanh nghiệp phát hành.

Trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ đã được bổ sung cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của tổ chức phân phối trái phiếu nếu hỗ trợ doanh nghiệp phát hành khống hoặc cung cấp thông tin sai sự thật, chào mời nhà đầu tư cá nhân mua trái phiếu. Trường hợp các tổ chức này vi phạm quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc bị xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung quy định để thiết lập thị trường giao dịch có tổ chức. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ phải lưu ký tập trung tại Tổng công ty Lưu ký và bù trừ chứng khoán, sau đó đăng ký giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán.

Tại phương án phát hành trái phiếu phải nêu cụ thể đối tượng nhà đầu tư mua trái phiếu, sau khi phát hành trái phiếu chỉ được giao dịch giữa các đối tượng nhà đầu tư đã công bố tại phương án phát hành.

Để hoàn thiện quy định về cơ chế quản lý, giám sát, Nghị định còn bổ sung trách nhiệm giám sát của Sở Giao dịch chứng khoán, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam và trách nhiệm của Ủy ban Chứng khoán nhà nước trong việc quản lý, giám sát và thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Bộ Tài chính có trách nhiệm đánh giá việc thực hiện cơ chế chính sách; quản lý, giám sát tổ chức kiểm toán, doanh nghiệp thẩm định giá khi cung cấp dịch vụ liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp; Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm giám sát các tổ chức tín dụng khi cấp phép cho các tổ chức này cung cấp dịch vụ đấu thầu, đại lý phát hành trái phiếu.

Đồng thời, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung pháp lý tại cấp luật và các văn bản hướng dẫn tập trung vào việc đánh giá điều kiện phát hành và điều kiện nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp để kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung phù hợp.

Theo thống kê, hiện lượng trái phiếu riêng lẻ chiếm áp đảo 95% (khoảng 1,425 triệu tỷ đồng) trong tổng khối lượng trái phiếu phát hành tính đến cuối năm 2021 (1,5 triệu tỷ đồng).

Cuối tháng 7/2022, Bộ Tài chính cho biết, trong năm 2022, khối lượng trái phiếu đáo hạn khoảng 144.500 tỷ đồng. Con số này của năm 2023 ở mức 271.400 tỷ đồng và năm 2024 sẽ là 329.500 tỷ đồng. Theo đó, tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp đến hạn trả nợ trong vòng 3 năm tiếp theo lên tới 745.400 tỷ đồng. Quý IV/2022, bất động sản là ngành có lượng trái phiếu đáo hạn lớn nhất với tổng giá trị đạt hơn 20 nghìn tỷ đồng. Phần lớn trái phiếu được công ty bất động sản phát hành với kỳ hạn ngắn hơn chu kỳ phát triển của dự án bất động sản, nhằm giúp lãi suất phát hành thấp hơn và việc phát hành, hấp thụ trái phiếu trở nên dễ dàng hơn. Điều này dẫn đến nhu cầu vòng quay trái phiếu khi đáo hạn là rất cao. Tuy nhiên, áp lực trái phiếu đáo hạn đã được giảm thấp với trào lưu mua lại trước hạn trái phiếu của các doanh nghiệp. 
Với các quy định mới của cơ quan quản lý và sau các sự kiện chưa có tiền lệ về việc hủy các lô trái phiếu đã phát hành của một số doanh nghiệp, thị trường chứng kiến làn sóng mua lại trái phiếu trước hạn mạnh mẽ của các doanh nghiệp phát hành. Theo đó, tính đến 30/9/2022, số dư TPDN giảm xuống 1,3 triệu tỷ đồng. Hiện nay giá trị trái phiếu do ngân hàng phát hành là hơn 400 nghìn tỷ, TPDN phi ngân hàng là hơn 920 nghìn tỷ đồng. Chiếm gần 50% trong số này là dư nợ trái phiếu bất động sản (455 nghìn tỷ đồng).

Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), trong tháng 9/2022, tổng giá trị trái phiếu được các doanh nghiệp mua lại trước hạn là 28.833 tỷ đồng, tăng 199% so với cùng kỳ năm trước. Tính luỹ kế trong 9 tháng năm 2022, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại là 142.209 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm 2021. Rõ ràng, với giá trị mua lại trong 9 tháng đầu năm 2022 rất cao, áp lực thanh toán nợ trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn đã giảm đi đáng kể.

Tuy nhiên, giá trị phát hành trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 9/2022 vẫn ở mức thấp, không có nhiều bứt phá. Cụ thể, trong tháng có tổng cộng 25 đợt phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp trong nước với tổng giá trị phát hành là 15.363 tỷ đồng. Ngân hàng vẫn là nhóm dẫn đầu với tổng giá trị phát hành 9.623 tỷ đồng. Nhóm bất động sản đứng thứ hai phát hành 2.300 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 5 năm. Nhóm hàng tiêu dùng đứng thứ ba phát hành 1.500 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn 5 năm và 7 năm.

Lũy kế 9 tháng đầu năm 2022, giá trị phát hành trái phiếu ra công chúng là 10.499 tỷ đồng, giảm 9,37% so với cùng kỳ năm ngoái (chiếm khoảng 4,3% tổng giá trị phát hành). Giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ là 233.692 tỷ đồng, giảm 40% (chiếm khoảng 95,7% tổng giá trị phát hành).

Để có nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn, các doanh nghiệp bất động sản cần xem xét kỹ và thực hiện các điều kiện để có thể tiếp tục phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP để vừa đảm bảo nguồn vốn đầu tư vào các dự án bất động sản, vừa đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán.

Với việc ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP và sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển bền vững, an toàn, lành mạnh, ổn định và trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Bộ Tài chính cho biết đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giãn thời gian thực hiện trong vòng 1 năm, tức là từ ngày 1/1/2024 sẽ tiếp tục thực hiện quy định về xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP.

Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình 2 tỷ đồng tối thiểu trong 180 ngày, không bao gồm tiền đi vay.

Trong dự thảo nghị định sửa đổi, Bộ Tài chính báo cáo thị trường đang gặp khó khăn về thanh khoản. Việc giãn thời gian thực hiện quy định về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 1 năm sẽ giúp thị trường có thêm thời gian điều chỉnh và có thể duy trì cầu đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất giãn thời gian thực hiện 1 năm đối với quy định yêu cầu xếp hạng tín nhiệm bắt buộc tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. 

Nghị định 65/2022/NĐ-CP yêu cầu từ 1/1/2023, hồ sơ chào bán trái phiếu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm, được áp dụng với những doanh nghiệp có tổng giá trị trái phiếu huy động trong 12 tháng lớn hơn 500 tỷ đồng và lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu hoặc tổng dư nợ trái phiếu lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu.

Bộ Tài chính lý giải trong bối cảnh huy động vốn khó khăn, trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm sẽ mất một thời gian đáng kể và tăng thêm chi phí phát hành.

Do đó, Bộ Tài chính đề xuất hoãn thực hiện quy định về yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm trong vòng 1 năm, từ ngày 1/1/2024 sẽ thực hiện thay vì từ 1/1/2023 như quy định tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Đối với trái phiếu chào bán ra công chúng, doanh nghiệp phát hành vẫn phải xếp hạng tín nhiệm từ đầu năm sau.

 

]]>
Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp giảm dần? https://trithucdoanhnhan.net/ap-luc-dao-han-trai-phieu-doanh-nghiep-giam-dan/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:58 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1331

Trước áp lực đáo hạn hơn 230 nghìn tỷ đồng vào năm 2023, doanh nghiệp đã triển khai nhiều giải pháp đề nghị giãn nợ hoặc hoán đổi trái phiếu sang sản phẩm bất động sản.

Những tín hiệu mừng

Theo thống kê của FiinRatings, tính đến hết tháng 10, giá trị trái phiếu bất động sản đang lưu hành có quy mô 445.000 tỷ đồng, chiếm gần 34% tổng giá trị trái phiếu riêng lẻ đang lưu hành và chiếm gần 50% tổng giá trị trái phiếu của các tổ chức doanh nghiệp phi tài chính (hơn 896.000 tỷ đồng).

Nhóm phân tích cho rằng, mặc dù hoạt động rút trước hạn của nhà đầu tư và mua lại trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành gây không ít khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp, nhưng điều này cũng đã góp phần giảm đáng kể áp lực từ số dư trái phiếu sẽ đáo hạn còn lại tại thời điểm hiện nay.

Số liệu cập nhật của đơn vị này cho thấy, tổng giá trị trái phiếu bất động sản sẽ đáo hạn sau ngày 15/11/2022 đến ngày 31/12/2022 chỉ còn ở mức 21.850 tỷ đồng. Tuy số dư này không lớn nhưng chiếm đa số bởi các doanh nghiệp chưa niêm yết và hầu như không có thông tin tài chính về tổ chức phát hành. Tới năm 2023, áp lực đáo hạn trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản duy trì ở mức 119.000 tỷ đồng và năm 2024 gần 112.000 tỷ đồng.

Thị trường cũng chứng kiến nhiều hình thức tái cấu trúc nợ khác nhau và được áp dụng ngày càng nhiều bởi các tổ chức phát hành. Một số phương án phổ biến như gia hạn kỳ hạn thanh toán nợ gốc với lãi suất mới, chuyển đổi thành hợp đồng cho vay dài hạn với lãi suất mới, chuyển đổi sang sản phẩm bất động sản.

FiinRatings cho rằng, đây là một dấu hiệu khá tích cực cho vấn đề thanh khoản hiện nay của thị trường bởi biện pháp này giúp giải quyết vấn đề áp lực dòng tiền trả nợ trong ngắn hạn trước làn sóng yêu cầu tất toán trước hạn của trái chủ.

Mặc dù hoạt động phát hành trái phiếu hiện cũng hoàn toàn vắng bóng 2 nhóm phát hành chủ lực là bất động sản và tổ chức tín dụng. Báo cáo của FiinRatings lý giải cả hai ngành này đang gặp các yếu tố bất lợi như môi trường lãi suất tăng cao, những yêu cầu mới của Nghị định 65.

Đáng chú ý, trong bối cảnh phát hành trái phiếu mới gần như đóng băng, nhiều doanh nghiệp gần đây công bố các khoản huy động vốn vay quốc tế. Trong đó, 10 giao dịch được công bố gần đây có tổng giá trị 1.915 tỷ USD.

Các khoản vay trên trăm triệu USD có thể kể đến như của Masan (600 triệu USD), VPBank (500 triệu USD), SeABank (200 triệu USD), Chứng khoán Bản Việt (105 triệu USD), Lộc Trời (100 triệu USD) và Be Group (100 triệu USD).

Điều này cũng cho thấy niềm tin của các tổ chức tài chính nước ngoài vào sự tăng trưởng dài hạn của các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam nếu như thông tin và hồ sơ tín dụng rõ ràng. Hoạt động huy động vốn vẫn có thể diễn ra và mức độ rủi ro được phản ánh vào lãi suất. Các khoản vay ngoại tệ cũng đã góp phần giải quyết vấn đề áp lực đáo hạn nợ và nhu cầu tái cơ cấu nợ của một số doanh nghiệp.

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp giảm dần?
Phân kỳ giá trị đáo hạn của trái phiếu bởi các doanh nghiệp bất động sản.

Chia sẻ về thị trường trái phiếu với Reatimes, TS. Cấn Văn Lực – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV phân tích: Trong 10 tháng vừa qua, lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký mới trong lĩnh vực bất động sản đạt khoảng 3,9 tỷ USD, chiếm khoản 17% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Nhờ hoạt động thương thảo với nhà đầu từ và mua lại trước thời hạn nên áp lực trả nợ trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đã giảm hơn 9%.

Cho nên, các nhà đầu tư không nên quá hoảng sợ vì thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam sẽ không rơi vào trường hợp vỡ nợ như Evergrande của Trung Quốc. Hơn nữa, khi tham gia phát hành trái phiếu, các doanh nghiệp đều phải đảm bảo được yêu cầu tối thiểu của thị trường và cơ quan quản lý.

Riêng về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo, thực hư rủi ro ra sao thì cần kết quả kiểm tra chính xác, các nhà đầu tư không nên quá lo sợ. Đây cũng là cơ hội để các cơ quan quản lý xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam bài bản, công khai, minh bạch và lành mạnh hơn.

“Tôi cho rằng, để giảm áp lực đảo nợ trái phiếu cuối năm cho các doanh nghiệp bất động sản, Chính phủ và các cơ quan bộ ngành phải sớm giải quyết các vụ việc vi phạm, tiếp tục khơi thông kênh tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu. Đồng thời, các doanh nghiệp phải xem xét, cơ cấu lại danh mục tài sản, cố gắng hết sức để có dòng tiền trả nợ đúng hạn. Nếu quá khó khăn, doanh nghiệp có thể đàm phán với trái chủ gia hạn, hoặc có thể chấp nhận bán đi một phần tài sản nào đó để thực hiện đúng cam kết, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư”, TS. Cấn Văn Lực cho biết.

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp giảm dần?

Thêm tin vui cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trái phiếu là Bộ Tài chính cho biết đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 65/2022/NĐ-CP ngày 16/9/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giãn thời gian thực hiện trong vòng 1 năm, tức là từ ngày 1/1/2024 sẽ tiếp tục thực hiện quy định về xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP (quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phải đảm bảo danh mục nắm giữ có giá trị trung bình 2 tỷ đồng tối thiểu trong 180 ngày, không bao gồm tiền đi vay).

Trong dự thảo nghị định sửa đổi, Bộ Tài chính báo cáo thị trường đang gặp khó khăn về thanh khoản. Việc giãn thời gian thực hiện quy định về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 1 năm sẽ giúp thị trường có thêm thời gian điều chỉnh và có thể duy trì cầu đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân.

Bộ Tài chính cũng đề xuất giãn thời gian thực hiện 1 năm đối với quy định yêu cầu xếp hạng tín nhiệm bắt buộc tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. 

Nghị định 65/2022/NĐ-CP yêu cầu từ 1/1/2023, hồ sơ chào bán trái phiếu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm, được áp dụng với những doanh nghiệp có tổng giá trị trái phiếu huy động trong 12 tháng lớn hơn 500 tỷ đồng và lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu hoặc tổng dư nợ trái phiếu lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu.

Bộ Tài chính lý giải trong bối cảnh huy động vốn khó khăn, trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm sẽ mất một thời gian đáng kể và tăng thêm chi phí phát hành.

Do đó, Bộ Tài chính đề xuất hoãn thực hiện quy định về yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm trong vòng 1 năm, từ ngày 1/1/2024 sẽ thực hiện thay vì từ 1/1/2023 như quy định tại Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Đối với trái phiếu chào bán ra công chúng, doanh nghiệp phát hành vẫn phải xếp hạng tín nhiệm từ đầu năm sau.

Ngày 14/12/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Công điện 1164/CĐ-TTg về tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản và phát triển nhà ở, trong đó giao trách nhiệm cho các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các doanh nghiệp, người dân khẩn trương triển khai các giải pháp, chung sức, đồng lòng tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển hiệu quả, an toàn, lành mạnh, bền vững.

Giải pháp giảm áp lực đáo hạn trái phiếu

Theo chia sẻ của giới chuyên gia, hiện nhiều doanh nghiệp đang đưa ra các giải pháp để xử lý: Một là mua lại trái phiếu trước hạn. Tuy nhiên, giải pháp này có thể khiến doanh nghiệp gánh thêm khó khăn, không còn vốn để phát triển dự án.

Giải pháp thứ hai là doanh nghiệp đàm phán với các trái chủ xin gia hạn thời hạn thanh toán trái phiếu. Doanh nghiệp có thể phải trả mức lãi suất cao hơn khi đề xuất kéo dài thời gian thanh toán, mặc dù vậy phía nhà đầu tư cũng có thể gặp rủi ro, nhất là đối với các dự án chưa hoàn thành pháp lý hoặc doanh nghiệp có năng lực tài chính thấp, không tìm được dòng vốn luân chuyển.

Giải pháp thứ ba là hoán đổi trái phiếu sang các sản phẩm bất động sản, doanh nghiệp phải chấp nhận hạ giá các sản phẩm để trái chủ đồng ý với phương án này. Tuy nhiên, thực tế thì giải pháp này cũng không dễ thực hiện vì phụ thuộc vào nhu cầu của từng trái chủ.

Bàn về giải pháp để giải tỏa áp lực trái phiếu đáo hạn, trong khi nguồn lực tài chính còn hạn chế, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, điều đầu tiên các nhà phát hành nên làm là ngồi lại với các trái chủ và thông báo tình trạng thực tế của doanh nghiệp. Kế đến là phải thương lượng về kế hoạch tái cơ cấu doanh nghiệp, kế hoạch trả nợ và tăng quyền lợi cho các trái chủ. Tiếp đó, doanh nghiệp nên thương lượng để nhờ ngân hàng bảo lãnh, dù cửa này rất hẹp.

TS. Nguyễn Trí Hiếu nói: “Đối với những doanh nghiệp có thể trả một phần nợ trái phiếu trước hạn hoặc có tài sản đảm bảo là cổ phiếu thì nên để các trái chủ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhà phát hành có thể bán lại tài sản cho các trái chủ với mức chiết khấu sâu (Thanh toán bằng hiện vật – Payment in Kind).

Về lâu dài, nếu các giải pháp trên vẫn không xử lý được, Chính phủ có thể thực hiện chương trình hoãn nợ (Credit Moratorium) trong 1 năm cho tất cả các nhà phát hành đúng luật. Doanh nghiệp nào phát hành sai luật sẽ không được áp dụng. Trong chương trình “Credit Moratorium”, các trái chủ không được yêu cầu trả nợ hoặc kiện nhà phát hành. Trong thời gian đó, Ngân hàng Nhà nước cần có chương trình cho vay đặc biệt để các nhà phát hành phục hồi kinh doanh, có nguồn lực trả nợ cho các trái chủ”.

Đồng thời, TS. Nguyễn Trí Hiếu cũng đồng tình với việc phải xử lý dứt điểm các sai phạm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp bởi điều này giúp thị trường tài chính hoạt động minh bạch, bền vững và nâng tầm, thu hút thêm được nhiều nhà đầu tư nước ngoài.

Áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp giảm dần?

Theo tìm hiểu của phóng viên, một số doanh nghiệp cũng đang tính toán lại các phương án xử lý khi đến hạn nhằm đối phó khó khăn trước mắt, nhất là nhanh chóng đưa ra giải pháp theo khuyến nghị của Bộ Tài chính.

Có doanh nghiệp bất động sản hàng đầu tại TP.HCM đề xuất các hướng xử lý trái phiếu đến hạn nhằm đảm bảo quyền lợi cho trái chủ như hợp tác kinh doanh, gia hạn thanh toán hay chuyển đổi sang bất động sản với nhiều ưu đãi tốt hơn trước. Trái chủ có thể chuyển đổi giá trị trái phiếu để đặt mua các bất động sản và được chuyển nhượng tài sản hoặc được cam kết mua lại 120% giá chuyển nhượng sau 24 tháng.

Một phương án khác là gia hạn lô trái phiếu thêm sau 24 tháng với mức lãi suất cộng thêm +1,5% trên lãi suất hợp đồng trước đó. Hoặc có thể tham gia hợp tác đầu tư với mức lãi suất 12%/năm, được hưởng các chính sách ưu đãi khi muốn chuyển đổi sang các sản phẩm bất động sản.

Một số doanh nghiệp tại thị trường phía Bắc cũng đề xuất phương án gia hạn thêm 12 tháng với lãi suất cộng thêm 2%, hoặc có thể chuyển đổi sang mua ngay bất động sản với giá chiết khấu 20 – 50% và cam kết mua lại đến 115% tài sản.

Chính sách chuyển đổi sang bất động sản có chiết khấu cao cũng đang được nhiều môi giới kinh doanh giới thiệu đến trái chủ, đây là một trong những cách xử lý “chịu đau” mà nhiều doanh nghiệp buộc thực hiện trong bối cảnh khó khăn.

]]>
Hoán đổi trái phiếu sang bất động sản là giải pháp “vàng” nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro https://trithucdoanhnhan.net/hoan-doi-trai-phieu-sang-bat-dong-san-la-giai-phap-vang-nhung-tiem-an-nhieu-rui-ro/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:58 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1336

Để giải quyết khoản nợ sắp đến hạn, doanh nghiệp địa ốc khuyến khích trái chủ hoán đổi trái phiếu sang sản phẩm bất động sản. Theo nhiều chuyên gia, đây là giải pháp tốt nhưng cũng tiềm ẩn không ít rủi ro.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong những năm qua đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Ông Lê Long Giang, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam đánh giá: “Đây vừa là kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả đối với các doanh nghiệp, vừa là kênh đầu tư hấp dẫn đối với cho người dân, vừa là nguồn lực dồi dào cho sự phát triển kinh tế quốc gia mà không gây áp lực đến bội chi ngân sách Nhà nước”.

Tuy nhiên, bước vào giai đoạn cuối năm 2022, nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh “khó chồng khó” khi dòng vốn dần cạn kiệt, trong khi khối lượng trái phiếu phát hành trước đó cũng đến hạn phải trả.

Theo số liệu cập nhật của FiinRatings, tổng giá trị trái phiếu bất động sản sẽ đáo hạn sau ngày 15/11/2022 đến ngày 31/12/2022 ở mức 21.850 tỷ đồng. Một số chuyên gia đánh giá đây không phải con số quá lớn và các doanh nghiệp vẫn có thể xoay xở được. 

Tuy nhiên, những năm tiếp theo, áp lực sẽ ở mức đáng kể khi lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 và 2024 lần lượt là 119.050 tỷ đồng và 111.810 tỷ đồng. Đây sẽ là con số “đè nặng” doanh nghiệp nếu thanh khoản vẫn kém và ngân hàng vẫn siết chặt tín dụng.

Vì lẽ đó, thị trường trái phiếu đang được chứng kiến nhiều hình thức tái cấu trúc nợ khác nhau, trong đó có một số doanh nghiệp đã thuyết phục nhà đầu tư hoán đổi sang sản phẩm bất động sản. 

Hoán đổi trái phiếu sang bất động sản là giải pháp “vàng” nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro
Giá trị đáo hạn của trái phiếu phát hành bởi doanh nghiệp bất động sản trong thời gian tới. (Nguồn số liệu: FiinRatings)

Doanh nghiệp chấp nhận chịu thiệt là điều… nên làm

Trao đổi với Reatimes, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho biết, trong thời gian qua, nhà đầu tư tham gia rót vốn vào trái phiếu doanh nghiệp có nhiều nhóm. Cụ thể trong đó, có nhóm chọn các doanh nghiệp lớn, dự án đã hoàn thành pháp lý; có nhóm đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ, dự án còn nằm trên giấy, thậm chí là không có tài sản thế chấp.

Việc hoán đổi trái phiếu doanh nghiệp sang sản phẩm bất động sản là giải pháp tốt trong giai đoạn hiện nay hiện nay, đặc biệt là với doanh nghiệp có năng lực, có thương hiệu và dự án hoàn chỉnh pháp lý.

“Bất động sản là kênh tích trữ tài sản, tích trữ tiền hàng đầu nên đây là cơ hội rất tốt cho các trái chủ, tuy nhiên cần đánh giá đúng từng dự án, từng chủ đầu tư. Ví dụ như dự án đã đủ pháp lý, gần hoàn thành thì nhà đầu tư có thể lựa chọn. Ngoài nỗ lực của doanh nghiệp, cũng cần phải có sự đồng hành của các bên. Chẳng hạn ngân hàng nếu thấy dự án thực hiện được 60 – 70% thì nên cho vay để dự án không bị dở dang, có thể hoàn thành và đưa vào sử dụng. Nhà nước phải vào cuộc tháo gỡ khó khăn về pháp lý, cơ chế để có sản phẩm giao cho nhà đầu tư”, ông Châu nêu kiến nghị.

Hoán đổi trái phiếu sang bất động sản là giải pháp “vàng” nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro
Nhiều chuyên gia cho rằng việc hoán đổi trái phiếu doanh nghiệp sang bất động sản là giải pháp tốt trong giai đoạn hiện nay hiện nay. (Ảnh: Hà Trang)

Đồng tình với quan điểm này, chuyên gia kinh tế – PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nói với Reatimes, đây là biện pháp khả thi cho cả phía doanh nghiệp lẫn chủ nợ trái phiếu.

Nhìn nhận dưới góc độ tâm lý của trái chủ, ông Thịnh cho rằng, đây là thời điểm cuối năm nên nhà đầu tư đều mong muốn thu được cả vốn gốc lẫn tiền lãi. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn, không thể thanh toán được trái phiếu và xin hoán đổi sang tài sản thay vì trả tiền thì rõ ràng phía trái chủ là bên bị động, đây là một bất cập đối với họ.

Theo ông Thịnh, việc trái chủ có chấp nhận giải pháp “hàng đổi hàng” này hay không còn tùy thuộc vào 2 yếu tố: “Thứ nhất, sản phẩm bất động sản được phía doanh nghiệp đưa ra để hoán đổi phải có tính thanh khoản cao, dễ dàng mua bán được. Thứ hai, giá của sản phẩm bất động sản phải ở mức đủ để khuyến khích trái chủ chấp nhận hoán đổi tài sản, đủ để khiến họ nhìn thấy sẽ có lợi trong tương lai”.

Trong khi đó, ở phía doanh nghiệp, những lợi ích được thể hiện rõ nét hơn. PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh đã chỉ ra 3 “mối lời” mà các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp địa ốc được hưởng ở đây.

Lợi ích đầu tiên dễ dàng nhận thấy nhất là việc doanh nghiệp sẽ trả được nợ vay và lãi vay trái phiếu đúng thời hạn cho các trái chủ. Nhờ vậy, vẫn giữ được uy tín, tên tuổi, danh tiếng trong các đợt phát hành trái phiếu tiếp theo và trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.

Thứ hai, thời gian qua các doanh nghiệp địa ốc cũng gặp nhiều khó khăn khi thị trường “đóng băng”, tính thanh khoản yếu. Do vậy, nếu trái chủ chấp nhận sản phẩm bất động sản thay vì đòi tiền thì cũng là điều tốt cho doanh nghiệp khi vừa bán được hàng, vừa giữ được uy tín.

Cuối cùng, doanh nghiệp hoán đổi được khoản nợ trái phiếu sẽ vừa giải phóng các sản phẩm bị ứ đọng, vừa đẩy nhanh vòng quay của vốn, từ đó tiếp tục vận hành tốt hoạt động sản xuất kinh doanh.

“Nếu trái chủ chấp nhận hoán đổi trái phiếu sang sản phẩm bất động sản, doanh nghiệp địa ốc dù·có cảm thấy bị lỗ một ít thì cũng nên cân nhắc để thực hiện bán tài sản. Hạ giá các bất động sản và chịu thiệt để trả được lãi vay, nợ vay trái phiếu cũng là điều nên làm”, ông Thịnh đưa ra lời khuyên cho các doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp bán được tài sản thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được đẩy mạnh, qua đó thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ ổn định và phát triển. Do vậy, các cơ quan quản lý cũng đóng vai trò to lớn. Chuyên gia Đinh Trọng Thịnh cho rằng, các nhà quản lý nên tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục, giấy tờ để doanh nghiệp có cơ hội thực hiện hoán đổi trái phiếu sang sản phẩm bất động sản.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh
PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia kinh tế, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính (Ảnh: Reatimes)

Rủi ro vẫn “rình rập”

Dù được giới chuyên gia đánh giá là một trong những giải pháp khả thi và phù hợp nhất trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay nhưng nhiều trái chủ vẫn còn e dè chưa đưa ra quyết định bởi các rủi ro có thể xảy ra của hình thức “hàng đổi hàng” này.

Anh Đức Long (quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) hiện đang nắm giữ 1,5 tỷ đồng trái phiếu của một doanh nghiệp bất động sản. Số trái phiếu này sẽ đến hạn thanh toán vào cuối tháng 12/2022 tới đây nhưng từ cách đây 2 tuần, nhân viên đã gọi điện tích cực tư vấn và khuyến khích anh chuyển đổi sang bất động sản với mức chiết khấu hấp dẫn là 35%. Chia sẻ với PV Reatimes, anh Long cho biết, vẫn còn đang đắn đo và cần suy nghĩ thêm.

“Nói trắng ra, đây là cách doanh nghiệp “đảo chiều” chúng tôi, từ chủ nợ trái phiếu đảo thành khách hàng mua sản phẩm một cách bất đắc dĩ dù không có nhu cầu. Tôi thấy khó khăn nhất là ở chỗ định giá cho bất động sản hoán đổi, rồi còn xuất hiện tình trạng mua chung sản phẩm nếu trái chủ không đủ tiền. Tôi sợ sẽ có nhiều vấn đề phát sinh không lường trước được khi thực hiện hoán đổi”, anh Long cho hay.

Ở góc độ chuyên gia kinh tế, ông Đinh Trọng Thịnh cho rằng, có 3 rủi ro lớn nhất mà các trái chủ cần phải lưu tâm.

Rủi ro đầu tiên là trong thời gian trước, một số chủ đầu tư đã khởi công xây dựng các dự án khi chưa đầy đủ các thủ tục, giấy tờ cũng như căn cứ pháp lý. Nếu trái chủ không tìm hiểu kỹ lưỡng mà hoán đổi phải những tài sản như thế thì sau này sẽ rất phức tạp.

Rủi ro thứ hai là về giá cả. Ông Thịnh phân tích: “Trong mấy năm vừa qua, thị trường bất động sản hầu như chỉ có tăng chứ giảm rất ít. Kể cả khi nền kinh tế khó khăn như năm 2021 (GDP chỉ tăng 2,58%) hay năm 2020 (GDP tăng 2,91%) thì giá bất động sản vẫn tăng vù vù, thậm chí nhiều phân khúc còn bị thổi giá lên rất cao. Bây giờ vẫn nói thị trường trì trệ từ đầu năm đến nay nhưng thực ra đâu có phân khúc nào giảm giá một cách rõ rệt”.

Từ thực trạng trên, ông Thịnh cho rằng nếu doanh nghiệp đưa ra mức giá như hiện nay thì các trái chủ chấp nhận hoán đổi sẽ dễ bị lỗ: “Đó là giá không thực của thị trường. Việc thẩm định giá và xem xét kỹ lưỡng khả năng thương mại của các tài sản là điều cần thiết để tránh gặp phải rủi ro sau này”.

Tuy nhiên, theo ông Thịnh, trái chủ cũng không nên vì quá đề phòng rủi ro mà gạt bỏ hoàn toàn giải pháp “hàng đổi hàng” với doanh nghiệp: “Tất nhiên giữa 2 “ngã rẽ” là hoặc có thể mất, hoặc vẫn còn có tài sản, thì tôi vẫn khuyên trái chủ nên lấy tài sản hoán đổi nếu doanh nghiệp đang quá khó khăn. Nhỡ chẳng may doanh nghiệp phá sản thì chắc gì phần của trái chủ đã còn”?

Rủi ro cuối cùng chính là phía trái chủ chưa có nhiều kinh nghiệm trong “thương vụ” trao đổi này. Nhìn nhận một cách khách quan thì ngay từ ban đầu, các nhà đầu tư không hề có nhu cầu mua tài sản. Sở dĩ họ chấp nhận hoán đổi ở đây cũng là vì thấy doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chi trả bằng tiền mặt, muốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp giữ được dòng tiền để tiếp tục sản xuất kinh doanh.

“Trái chủ không có nhu cầu từ đầu nên rất dễ sau này họ sẽ bán các tài sản đó. Tuy nhiên, họ không phải nhà đầu tư chuyên nghiệp để có thể dễ dàng đi mua và bán lại kiếm lời. Cho nên trong tương lai, các khâu từ cách thức mua bán, tính toán giá cả… đều sẽ trở thành khó khăn cho trái chủ. Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận hoán đổi mà sau này lại bán ra khi không có kinh nghiệm, không có kỹ năng thì khả năng mất, lỗ và gặp phải rủi ro trong các vấn đề liên quan sẽ tương đối nhiều”, ông Thịnh nhìn nhận và đánh giá.

Reatimes
Theo chuyên gia, xét theo mặt tích cực thì giải pháp hoán đổi trái phiếu doanh nghiệp sang bất động sản có thể tạo cơ hội cho người dân mua nhà với giá rẻ hơn thị trường. (Ảnh: Hà Trang)

Bên cạnh những rủi ro tiềm ẩn thì theo chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, giải pháp này còn có thể tạo ra một tiền lệ xấu, tác động tiêu cực đến thị trường bất động sản nếu xét về lâu dài. Đó là việc một số doanh nghiệp sẽ có thể phát hành trái phiếu với tâm thế luôn bán được hàng, kể cả khi có gặp khó khăn thực sự hay không, bằng cách hạ giá rẻ các bất động sản để thanh lý trái phiếu.

“Tuy nhiên, nếu nhìn nhận về mặt tích cực thì giải pháp này sẽ tạo cơ hội cho người dân có thể mua được bất động sản với giá rẻ hơn thị trường. Điều này một mặt như “ép buộc” trái chủ, nhưng mặt khác cũng chứng minh bên phát hành trái phiếu có tài sản để đảm bảo, qua đó giúp người dân yên tâm hơn khi đầu tư”, ông Thịnh cho hay./.

]]>
Cần nhiều giải pháp đồng bộ để giảm áp lực vốn cho doanh nghiệp https://trithucdoanhnhan.net/can-nhieu-giai-phap-dong-bo-de-giam-ap-luc-von-cho-doanh-nghiep/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:57 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1342

Các doanh nghiệp vẫn đang xoay xở nhằm giảm áp lực dòng vốn, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã nới room 1,5-2%.

Ngày 5/12, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định tăng chỉ tiêu tín dụng cho toàn hệ thống thêm khoảng 1,5 – 2%. Các chuyên gia nhận định, đây là những giải pháp linh hoạt, bám sát diễn biến của lạm phát để xây dựng chỉ tiêu định hướng và các giải pháp điều hành tiền tệ, tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài tín hiệu lạc quan này, doanh nghiệp vẫn đang xoay xở trước áp lực đáo hạn trái phiếu. Gần đây, một số công ty địa ốc đề xuất phương án gia hạn, hợp tác đầu tư hoặc chuyển đổi tài sản với nhiều ưu đãi nhằm tháo gỡ khó khăn cho vấn đề đáo hạn trái phiếu. Song vẫn cần Chính phủ, các cơ quan chức năng triển khai thêm các giải pháp khơi thông dòng vốn trung và dài hạn, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng.

Nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng là tín hiệu tốt

Trao đổi với Reatimes, chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc tăng trưởng tín dụng lần này là sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất tăng trưởng và phát triển trong thời gian cuối năm 2022, gối đầu 2023 để hoàn thành kế hoạch mục tiêu đề ra. Việc nới room tín dụng đợt này chủ yếu hướng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khi hoạt động cho vay tăng trưởng thì doanh nghiệp có nguồn vốn để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, thực hiện hợp đồng đã ký kết trong dịp từ nay đến Tết âm lịch.

“Như Ngân hàng Nhà nước đã nêu rõ và yêu cầu các ngân hàng cân đối vốn phù hợp để cấp tín dụng, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp phụ trợ và các động lực tăng trưởng theo đúng chủ trương của Chính phủ, chúng ta rất hy vọng việc tăng trưởng tín dụng này sẽ đi đúng hướng, kiểm soát tốt rủi ro tín dụng và giữ tỷ lệ nợ xấu ở mức độ thấp”, ông Thịnh nói.

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh đánh giá, nhu cầu vốn cuối năm đều rất lớn ở tất cả các lĩnh vực, vậy cần phân bổ cho vay như thế nào, làm sao để từng đồng cho vay hiệu quả, tránh rủi ro nợ xấu là điều các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ theo như chỉ đạo của Thủ tướng là thận trọng, an toàn, linh hoạt và hiệu quả. Để kiểm soát nợ xấu, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc tăng trưởng tín dụng này sẽ phải đi đúng hướng, vào các nhóm ngành, lĩnh vực ưu tiên đúng như chỉ đạo của Chính phủ.

“Việc nới room tín dụng sẽ có một phần cho vay đối với các hộ gia đình, cá nhân muốn mua nhà, cho vay tiêu dùng, và phần nhỏ cho một số dự án bất động sản chuẩn bị hoàn thành nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. Các ngân hàng cũng sẽ xem xét mức độ tín dụng bất động sản một cách linh hoạt, xét đến tính khả thi của từng dự án, trong đó cần cung cấp vốn vay cho người có nhu cầu ở thực”, ông Thịnh nêu quan điểm.

Reatimes
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh (Ảnh: Reatimes)

Bên cạnh sự lạc quan về tình hình tín dụng, nhiều chuyên gia nhận định, việc trả nợ trái phiếu doanh nghiệp lúc này vẫn đang là thách thức rất lớn cần xử lý ngay. Dẫn số liệu từ Bộ Tài chính, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho biết, lũy kế 10 tháng của năm 2022, thị trường có 23 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng với giá trị 10.599 tỷ đồng (chiếm 4% tổng giá trị phát hành) và 413 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ trị giá 240.761 tỷ đồng (chiếm 96% tổng giá trị phát hành). So với cùng kỳ năm trước, giá trị trái phiếu phát hành ra công chúng đã giảm 56% và giá trị phát hành riêng lẻ giảm 51%, trong đó nhóm ngành bất động sản chiếm 21,5% tổng giá trị phát hành, giảm mạnh 67% so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn vốn suy giảm mạnh trong năm nay khiến nhiều doanh nghiệp đang phải xoay xở để thực hiện trách nhiệm thanh toán với các trái chủ khi kỳ hạn thanh toán trái phiếu đã đến hạn, theo PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, gần đây nhiều công ty địa ốc đề xuất phương án gia hạn, hợp tác đầu tư hoặc chuyển đổi tài sản với nhiều ưu đãi nhằm tháo gỡ khó khăn. Đơn cử, một đơn vị bất động sản phía Nam đang đề xuất các phương án, như sử dụng giá trị trái phiếu đang nắm giữ để mua bất động sản của đơn vị này, với quyền tự do chuyển nhượng, hoặc gia hạn thanh toán trái phiếu thêm 24 tháng, lãi suất 12%/năm với kỳ thanh toán không thay đổi.

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nhìn nhận, xét trên góc độ kinh tế, những đề xuất thương lượng của doanh nghiệp vẫn mang lại lợi ích và đảm bảo tài sản cho trái chủ. Các giải pháp trên sẽ dễ dàng được chấp thuận hơn khi doanh nghiệp và trái chủ thương lượng các điều khoản phù hợp.

Các chuyên gia đánh giá cao nỗ lực xoay xở của các doanh nghiệp và chính sách điều hành tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước. Song, để giải tỏa được áp lực dòng vốn và đáo hạn trái phiếu cũng như bình ổn thị trường, vẫn cần thêm những thông điệp hỗ trợ và chủ trương, chính sách từ phía cơ quan quản lý.

Bình luận về về động thái cấp tiếp hạn mức tăng trưởng tín dụng 1,5 – 2% của Ngân hàng Nhà nước, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, Kinh tế Trưởng BIDV cho biết, trước bối cảnh áp lực lạm phát, lãi suất và tỷ giá trong nước và trên thế giới đã dịu bớt khá nhiều; thanh khoản hệ thống ngân hàng đã tốt lên với việc tiền gửi của dân cư tăng trở lại và nhu cầu vốn để duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất – kinh doanh, thanh khoản cuối năm của doanh nghiệp và người dân rất lớn, do đó Ngân hàng Nhà nước quyết định cấp tiếp hạn mức tăng trưởng tín dụng 1,5 – 2% vào lúc này.

Theo TS. Cấn Văn Lực, việc cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ tác động không đáng kể đến lạm phát do lượng vốn tín dụng tăng thêm khoảng gần 200.000 tỷ đồng, sẽ hấp thụ nhanh và đáp ứng các nhu cầu thiết thực đối với dự án, công trình dở dang, người vay mua nhà, các hợp đồng xuất nhập khẩu và các khoản nợ đến hạn…

“Việc cấp tiếp hạn mức tín dụng sẽ góp phần giải tỏa một phần nhu cầu vốn cuối năm của doanh nghiệp và người dân; hỗ trợ doanh nghiệp duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định thị trường và ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng cuối năm và đầu năm tới”, ông Lực nêu.

Chung tay giải tỏa áp lực dòng vốn cho doanh nghiệp

Trước động thái cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, TS. Cấn Văn Lực cũng đưa các lưu ý và khuyến nghị. Trước hết, các tổ chức tín dụng cần chủ động cân đối nguồn vốn huy động, đảm bảo thanh khoản, đảm bảo chất lượng và hiệu quả tín dụng; các bộ, ngành địa phương đẩy nhanh, hiệu quả giải ngân đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình phục hồi 2022 – 2023 nhằm giảm áp lực nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng, giảm nợ đọng xây dựng cơ bản giữa các doanh nghiệp, tăng tính lan tỏa và tạo động lực tăng trưởng trước mắt và lâu dài.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo khoanh vùng, giải quyết nhanh, dứt điểm những vụ việc vi phạm trên thị trường vốn vừa qua, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, lấy lại niềm tin của thị trường, người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, TS. Cấn Văn Lực cũng mong muốn Bộ Tài chính sẽ khơi thông mạnh mẽ kênh dẫn vốn từ trái phiếu doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp thanh toán nợ đáo hạn.

Reatimes
TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, Kinh tế Trưởng BIDV (Ảnh: Reatimes)

Cùng bàn về kênh trái phiếu doanh nghiệp, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc ổn định và phát triển thị trường này, trong đó có việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư là vô cùng quan trọng, nhưng mấu chốt vẫn cần tạo điều kiện giúp doanh nghiệp xử lý vấn đề đáo hạn trái phiếu.

“Việc chú trọng bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư như Nghị định 65 là quan trọng và cần thiết, tuy nhiên phải xác định đây là hợp đồng dân sự giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư. Do đó, các điều khoản của Nghị định nên vừa phải chứ đến mức doanh nghiệp không thể phát hành trái phiếu được thì cần sớm điều chỉnh.

Cần xác định đây là thị trường tiềm năng đối với nhà phát hành lẫn nhà đầu tư và việc xử lý thị trường trái phiếu cần chú ý đến niềm tin của các trái chủ đối với thị trường. Việc chung tay của Nhà nước trong quản lý phát hành là cần thiết, song, rõ ràng việc quyết định mua hay không mua, lãi suất và độ an toàn của trái phiếu như thế nào phải do nhà đầu tư tự xem xét quyết định. Nghị định 65 chú trọng bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư là rất tốt, nhưng Nghị định này đang quá chặt chẽ thì rất khó cho doanh nghiệp huy động vốn”, ông Thịnh nói.

Ngoài ra, để giữ được niềm tin của nhà đầu tư trong thời điểm hiện tại, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nhấn mạnh, điều tiên quyết là các doanh nghiệp phát hành phải tìm cách bố trí nguồn vốn để trả nợ vay cho trái chủ đúng thời hạn. Nếu không, doanh nghiệp phải xem xét đẩy mạnh khả năng tiếp tục phát hành trái phiếu đảo nợ như Nghị định 65 đã cho phép. Trong trường hợp không phát hành được trái phiếu thì doanh nghiệp cần chủ động liên hệ trước với trái chủ để đàm phán. Nếu trái chủ cảm thấy doanh nghiệp có phương án tốt, kế hoạch đầu tư tốt, vấn đề tài chính tốt và sòng phẳng, với mức lãi suất phù hợp với thị trường hiện tại nhưng cũng không quá khả năng của doanh nghiệp, thì họ có thể đồng ý gia hạn trái phiếu.

Nếu không đàm phán được với trái chủ, doanh nghiệp phải tìm cách chuyển hóa trái phiếu thành cổ phần. Đây cũng là phương án tốt vì nhà đầu tư sau này sẽ được hưởng lợi ích từ sự hồi phục và phát triển của doanh nghiệp. Cuối cùng, doanh nghiệp buộc phải tính đến phương án bán những tài sản bảo đảm để trả nợ cho trái chủ và giữ uy tín, tên tuổi của mình.

Tuy nhiên, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cũng nêu, khi doanh nghiệp làm thủ tục xin phá sản, mặc dù là đối tượng được ưu tiên thanh toán, nhưng nhà đầu tư vẫn phải theo thứ tự ưu tiên, có khi sẽ không đảm bảo lợi ích đến cùng. Do đó, nếu trái chủ thiện chí hợp tác với doanh nghiệp để cùng phục hồi và phát triển thì sẽ thuận lợi hơn.

Ngoài ra, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cũng nêu thêm phương án, với vai trò thiết kế khuôn khổ pháp lý, giám sát quá trình phát hành trái phiếu để doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách, trong điều kiện một số doanh nghiệp đang khó khăn, Chính phủ có thể giao nhiệm vụ cho cơ quan chuyên môn có thẩm quyền mua lại trái phiếu của một số doanh nghiệp.

“Việc mua lại có thể thông qua Ủy ban quản lý vốn Nhà nước hoặc cơ chế khác, trong một thời hạn nhất định, nếu đáp ứng được các điều kiện đặt ra như có tài chính tốt, có tài sản đảm bảo và khả năng trả nợ tốt… Sau khi doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh thì có thể bán lại trái phiếu cho doanh nghiệp với lãi suất cao hơn”, chuyên gia Đinh Trọng Thịnh nói./.

]]>
Doanh nghiệp phải minh bạch mọi thông tin để giữ niềm tin của nhà đầu tư https://trithucdoanhnhan.net/doanh-nghiep-phai-minh-bach-moi-thong-tin-de-giu-niem-tin-cua-nha-dau-tu/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:57 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1359

Theo giới chuyên gia, nhà đầu tư Việt Nam mua trái phiếu không chỉ vì lãi suất cao mà muốn tìm một kênh đầu tư ổn định, vì vậy việc giữ chữ tín và tạo dựng niềm tin của doanh nghiệp phát hành là rất quan trọng.

Niềm tin nhà đầu tư cần được “vá lành”

Năm 2021 là khoảng thời gian thăng hoa của thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp. Tổng giá trị TPDN phát hành trong năm 2021 đạt 623.616 tỷ đồng (tăng 34,9% so với năm 2020), trong đó nhóm ngành bất động sản chiếm 34,8% tổng giá trị phát hành, tăng 36,2% so năm 2020.

Tuy nhiên, kể từ tháng 3/2022, thị trường TPDN bắt đầu chững lại lại. Theo số liệu của Bộ Tài chính, lũy kế 10 tháng của năm 2022, thị trường có 23 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng với giá trị 10.599 tỷ đồng (chiếm 4% tổng giá trị phát hành) và 413 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ trị giá 240.761 tỷ đồng (chiếm 96% tổng giá trị phát hành). So với cùng kỳ năm trước, giá trị trái phiếu phát hành ra công chúng đã giảm 56% và giá trị phát hành riêng lẻ giảm 51%.

Theo các chuyên gia, thị trường TPDN chậm lại một phần do chờ đợi Nghị định sửa đổi 153/NĐ-CP/2020, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư cũng như nâng cao chất lượng của thị trường vốn; phần khác là do nhiều vụ việc sai phạm liên quan đến hoạt động phát hành, sử dụng nguồn vốn trái phiếu ở một số doanh nghiệp đã bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường. Mặc dù các sai phạm bị xử lý chỉ xuất hiện ở một số trường hợp nhất định, song tính “nhạy cảm” của thông tin đã vô tình tạo tâm lý bất an, khiến các nhà đầu tư có xu hướng dè chừng đối với TPDN. Đây chính là nguyên nhân cốt lõi khiến thị trường trái phiếu vốn đang “phất lên” lại “chìm xuống” một cách nhanh chóng. 

Hơn hết, chia sẻ tại Hội thảo “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Niềm tin và giải pháp” mới đây, chuyên gia kinh tế – TS. Đinh Thế Hiển cho rằng, nhà đầu tư Việt Nam mua trái phiếu không phải vì lãi suất cao mà họ muốn tìm một kênh đầu tư ổn định, như một định chế tài chính vững chắc song lãi suất vẫn ở mức cao hơn tiền gửi ngân hàng.

“Chung quy lại đối với nhà đầu tư, uy tín và tên tuổi của công ty là những vấn đề ưu tiên khi tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phát hành cần giữ vững chữ tín và tạo dựng niềm tin trên thị trường, niềm tin đối với nhà đầu tư. Chỉ cần một thông tin xấu về hình ảnh doanh nghiệp là sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Vì vậy, hơn lúc nào hết, thời điểm này niềm tin nhà đầu tư cần được “vá lành” để sớm đưa thị trường TPDN trở lại guồng quay vốn có của nó”, ông Hiển nói. 

Đưa ra quan điểm, Luật sư Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) cho biết, nguyên nhân quan trọng khiến nhà đầu tư mất niềm tin vào trái phiếu doanh nghiệp là do những công ty phát hành công bố thông tin sai sự thật, thông tin giả, chất lượng tài sản đảm bảo của trái phiếu hạn chế, không có tài sản đảm bảo.

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp không có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định, không có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán.

Đồng thời, đơn vị môi giới, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán cần minh bạch hơn trong quá trình tư vấn phát hành trái phiếu. Thậm chí, nhiều đơn vị hoạt động môi giới đầu tư trái phiếu khi chưa được cơ quan thẩm quyền cấp phép.

Doanh nghiệp phải minh bạch mọi thông tin để giữ niềm tin của nhà đầu tư
Luật sư Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA). Ảnh: TC Tài chính Doanh nghiệp

“Các công ty chào bán không tuân thủ quy định, chưa xác nhận minh bạch thông tin đơn vị phát hành trái phiếu. Thậm chí, các đơn vị tư vấn và đại lý phát hành đã có động thái để “hỗ trợ” nhà đầu tư không đủ tiêu chuẩn tham gia mua TPDN phát hành riêng lẻ để thu hút dòng tiền”, ông Hưng cho biết. 

Vị chuyên gia này cho rằng, để hồi phục niềm tin nhà đầu tư, trước hết cần lành mạnh hoá thị trường TPDN. Các thông tin của doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải được công khai minh bạch, doanh nghiệp phải luôn giữ chữ tín và đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.

Cũng theo Luật sư Phạm Ngọc Hưng, thị trường trái phiếu nói chung vẫn còn nhiều doanh nghiệp lành mạnh, những trái phiếu có tài sản đảm bảo thì tính an toàn vẫn cao. Đồng thời, cơ quan chức năng cũng tích cực điều phối như vụ việc SCB để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư. Còn nếu nhà đầu tư cảm thấy có dấu hiệu lừa đảo thì có thể tố cáo đến cơ quan công an để được thụ lý hồ sơ. Tất nhiên, trước khi tiến hành đầu tư, nhà đầu tư cũng cần quan sát thực trạng doanh nghiệp và ghi nhận thông tin từ những nguồn tin chính thống, rõ ràng. Trên thực tế rất nhiều nhà đầu tư nghe tin đồn thổi, tin hành lang và tiến hành đầu tư dẫn đến rủi ro.

Có cùng quan điểm, chuyên gia tài chính ngân hàng – TS. Trịnh Đoàn Tuấn Linh nhìn nhận, các công ty bất động sản nếu muốn bàn bạc với nhà đầu tư để hợp tác kinh doanh thì cần minh bạch các dự án, các vấn đề pháp lý, quy mô và tiến độ. Đồng thời, nhà đầu tư quan tâm đến hoán đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu thì doanh nghiệp cũng cần có những quy định, chính sách rõ ràng về định giá tài sản như thế nào, dựa trên cơ sở nào để định giá, làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của trái chủ.

Doanh nghiệp cần làm gì để giải toả áp lực trái phiếu đáo hạn?

Áp lực đáo hạn trái phiếu cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng lúc này, nếu không có giải pháp xử lý khéo léo nguy cơ vỡ nợ của các doanh nghiệp là rất lớn và kéo theo nhiều hệ lụy lâu dài cho thị trường.

Theo ông Mã Thanh Danh, Chủ tịch Công ty Cổ phần Tư vấn Quốc tế (CIB), áp lực trái phiếu đáo hạn một phần có nguyên nhân từ các công ty chứng khoán và ngân hàng. Các tổ chức này để bán được trái phiếu, họ hứa với nhà đầu tư sẽ mua lại trong 3 – 6 tháng sau khi phát hành. Đến khi trái chủ yêu cầu mua lại thì họ không mua hoặc không đủ năng lực mua, nhưng nếu đẩy trách nhiệm này cho nhà phát hành thì không đúng quy định, bởi thời hạn phát hành thường ít nhất là 1 năm.

Theo đó, để giúp doanh nghiệp giải tỏa áp lực trái phiếu đáo hạn, ông Mã Thanh Danh đề xuất 3 nhóm giải pháp:

Thứ nhất, phải tính toán khả năng từ nội tại chính doanh nghiệp.

Doanh nghiệp nên liệt kê xem tài sản còn lại những gì. Đối với doanh nghiệp đang kinh doanh tốt nhưng trái chủ yêu cầu mua lại thì có thể dùng nguồn tiền mặt để mua lại, giúp giải tỏa bớt áp lực. Nếu không đủ tiền, doanh nghiệp có thể đi vay thêm hoặc thế chấp một phần trái phiếu với lãi suất cao hơn để vay tiền mua lại phần còn lại. Bên cạnh đó, với tình hình kinh doanh ổn định, doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với trái chủ để họ chờ đến hạn.

Trong trường hợp trái chủ nhất quyết yêu cầu mua lại, doanh nghiệp có thể thương lượng để trái chủ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu. Vừa qua, một ngân hàng đã đồng ý chuyển đổi trái phiếu một tập đoàn thành cổ phiếu với giá 85.000 đồng/cổ phiếu, trong khi thị giá chỉ hơn 20.000 đồng/cổ phiếu.

Riêng với những doanh nghiệp có tài chính không đủ mạnh hoặc kinh doanh kém khả quan, yêu cầu mua lại trái phiếu thực sự là áp lực không nhỏ. Vì vậy, doanh nghiệp cần chuẩn bị một kế hoạch tái cấu trúc rõ ràng để thương lượng với trái chủ. Nếu không được, doanh nghiệp buộc phải bán các tài sản đang có để hàn thành nghĩa vụ với trái chủ, đó có thể là đất đai, thương hiệu, hệ thống phân phối…

Doanh nghiệp phải minh bạch mọi thông tin để giữ niềm tin của nhà đầu tư
Ông Mã Thanh Danh, Chủ tịch Công ty Cổ phần Tư vấn Quốc tế (CIB). Ảnh: TC Tài chính Doanh nghiệp

Thứ hai, doanh nghiệp cũng có thể tìm giải pháp từ bên ngoài thị trường.

Gần đây, sau khi thị trường chứng khoán rớt điểm liên tiếp đã có những tín hiệu sáng hơn, dòng tiền tăng trở lại đáng kể. Doanh nghiệp vì thế có thể tính toán phương án huy động vốn qua thị trường này để thanh toán trái phiếu, thậm chí có thể bán bớt cổ phiếu quỹ để thu tiền về.

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu là cần nguồn vốn trung và dài hạn để phát triển, sau khi không huy động được bằng kênh cổ phiếu và vay ngân hàng. Vì thế thị trường Việt Nam rất cần những ngân hàng đầu tư (Investment Banking) có nguồn vốn lớn cho vay trung và dài hạn. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, họ sẽ đồng hành lâu dài bằng cách chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.

“Thực tế thì các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam chưa nhiều, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường chứng khoán cũng chưa được nâng hạng. Khi thị trường được nâng hạng sẽ đón thêm nhiều dòng vốn lớn đổ vào, giúp doanh nghiệp đỡ áp lực về nguồn vốn”, ông Danh chia sẻ.

Cuối cùng, doanh nghiệp cần tính đến phương án tham gia thị trường mua bán nợ. Tuy nhiên, các công cụ mua bán nợ tại thị trường Việt Nam hiện vẫn chưa phổ biến. Đồng thời, nếu có một thị trường trái phiếu thứ cấp hoạt động bài bản thì các trái chủ khi cần bán lại sẽ giao dịch trực tiếp trên thị trường này, giảm bớt áp lực cho doanh nghiệp.

Cũng theo ông Mã Thanh Danh, doanh nghiệp cần vốn là để tăng trưởng là điều hiển nhiên, nhưng cần thay đổi cấu trúc, tối ưu hóa mô hình kinh doanh sản xuất để tận dụng nguồn vốn. Để hoán đổi trái phiếu thành cổ phiếu, doanh nghiệp cần minh bạch thông tin về tình hình hoạt động và kế hoạch kinh doanh để tạo niềm tin cho nhà đầu tư./.

]]>
Doanh nghiệp bất động sản cần làm gì để giải quyết khoản nợ trái phiếu sắp đáo hạn? https://trithucdoanhnhan.net/doanh-nghiep-bat-dong-san-can-lam-gi-de-giai-quyet-khoan-no-trai-phieu-sap-dao-han/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:56 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1400

Thị trường trầm lắng, cùng với việc tiếp cận vốn tín dụng, phát hành trái phiếu để đảo nợ cũng gặp khó khăn là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp bất động sản.

Càng về cuối năm, câu chuyện đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp càng “nóng”, đặc biệt là với cộng đồng doanh nghiệp bất động sản. Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bị sụt giảm, việc cân đối dòng tiền khó khăn, khả năng xử lý khối lượng nợ lớn từ trái phiếu không phải là điều dễ dàng.

Chưa kể, với một số giải pháp được cho là khả thi trong những năm trước thì nay chưa chắc đã thực hiện được do lòng tin của nhà đầu tư đang lung lay và dần quay lưng với thị trường.

Vậy đâu là hướng đi phù hợp nhằm giải quyết dư nợ này? Để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu, cơ quan quản lý cần có giải pháp gì chống “bond run”?  Trước những vấn đề này, Reatimes đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng Bộ môn Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

PV: Tính từ đầu tháng 11, toàn thị trường vẫn còn khoảng 58.000 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ đến hạn thanh toán trong năm 2022, trong đó có tới 35.000 tỷ đồng thuộc nhóm ngành bất động sản. Theo ông, việc đáo hạn TPDN trong bối cảnh hiện nay tạo nên áp lực thế nào đối với các doanh nghiệp địa ốc?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Do các thông tin tiêu cực từ các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại một số doanh nghiệp nên tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng rất lớn và làm cho thị trường trái phiếu trầm lắng trong suốt thời gian vừa qua, song song với đó là chính sách hạn chế tín dụng trong lĩnh vực bất động sản của Ngân hàng Nhà nước. 

Chưa kể, thị trường bất động sản đóng băng từ đầu năm đến nay, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp khó bán được hàng và lại càng khó trong khâu huy động vốn từ việc phát hành trái phiếu hay vay nợ ngân hàng. 

Như vậy, nhiều khó khăn đang bủa vây các doanh nghiệp này và khả năng thu xếp vốn để trả nợ trái phiếu đến hạn hoặc vay nợ mới để trả nợ cũ là khó khả thi ở thời điểm hiện tại. Nếu như không thể thu xếp các khoản nợ này thì doanh nghiệp hoàn toàn phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ, phá sản hàng loạt trong thời gian tới.

PV: Mới đây, Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP đã chính thức cho phép doanh nghiệp đảo nợ trái phiếu. Tuy nhiên, khả năng đảo nợ trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản trong giai đoạn hiện nay có lớn hay không, thưa ông?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Cho dù Nghị định có cho phép, nhưng tâm lý nhà đầu tư hiện nay dường như đã mất nhiều niềm tin với trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, chính vì thế sẽ rất khó khăn để tìm được người mua.

Các doanh nghiệp lớn có thể cân nhắc phát hành trái phiếu quốc tế để đảo nợ, tuy nhiên với sự không chắc chắn về tỷ giá trước các diễn biến kinh tế vĩ mô thế giới khá phức tạp như hiện nay, họ phải cân nhắc thêm việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá và cũng phải chấp nhận một mức lãi suất cao nếu muốn phát hành thành công.

Reatimes

PV: Nếu không sớm giải quyết câu chuyện trái phiếu đáo hạn nói trên, các doanh nghiệp cũng như thị trường bất động sản sẽ lâm vào trạng thái như thế nào?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Nếu như không có các giải pháp kịp thời và hiệu quả, thị trường bất động sản sẽ rơi tình trạng giống giai đoạn 2009-2013, tức là sẽ đóng băng trong một thời gian dài, thậm chí là một số nơi giá bất động sản đã bị đẩy lên cao trước đây thì sẽ có hiện tượng bán tháo để thu hồi vốn, và giá sẽ giảm mạnh, đặc biệt là ở các khu vực tỉnh xa. 

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bất động sản sẽ phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ và phá sản vì sản phẩm bán không được nhưng nợ thì lại đến hạn phải thanh toán.

PV: Vậy theo ông, đâu là giải pháp cho các doanh nghiệp bất động sản hiện nay?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Các doanh nghiệp bất động sản nên cơ cấu lại nợ cho phù hợp, nếu như không có khả năng trả nợ thì cố gắng thương lượng với nhà đầu tư để chuyển nợ thành vốn cổ phần hoặc chuyển nợ thành sản phẩm với giá chiết khấu cao, việc này cũng mang lại lợi ích cho nhà đầu tư khi họ có thể mua cổ phần hay tài sản bất động sản với giá rẻ hơn so với giá thị trường, để giúp cơ cấu lại nợ trong thời điểm hiện tại.

Cùng với đó, những dự án nào chưa thể triển khai hay chưa có vốn để triển khai thì nên cân nhắc tìm kiếm đối tác chuyển nhượng lại để có nguồn vốn tập trung vào các dự án hiện tại hay cơ cấu lại nợ.

PV: Để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu, cơ quan quản lý cần có giải pháp chống “bond run” như thế nào, thưa ông?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Theo tôi, Bộ Tài chính có thể tính đến phương án thành lập 1 ủy ban chuyên trách xử lý nợ xấu trái phiếu, mua lại các khoản nợ trái phiếu từ người dân, ngân hàng để tập trung xử lý triệt để thì mới có khả năng lấy lại niềm tin cho nhà đầu tư. Một số ý kiến cho rằng, nên để NHTM làm việc này nhưng theo tôi là không khả thi vì sẽ không đạt được tính tập trung, mỗi ngân hàng làm 1 kiểu và các NHTM cũng sẽ không mấy mặn mà trong việc xử lý nợ xấu trái phiếu, bởi bản thân họ cũng đã có quá nhiều việc phải làm, đặc biệt là nợ xấu trong hệ thống NHTM có khả năng tăng cao. 

Ngoài ra, nếu được cho phép thì Tổng công ty kinh doanh vốn Nhà nước cũng có thể tham gia vào quá trình xử lý với trái phiếu để đạt hiệu quả cần thiết, tháo gỡ khó khăn cho thị trường và nền kinh tế. Về việc này có thể tham khảo cách làm mà Chính phủ Mỹ đã từng thực hiện trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới giai đoạn 2007-2009 khi mua lại các trái phiếu doanh nghiệp để giải cứu thị trường tài chính và sau đó khi thị trường ổn định thì bán ra và thu về lợi nhuận nhất định.

Reatimes

PV: Ông có lời khuyên gì cho nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn hiện nay?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Ở thời điểm này, các nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp có thể bình tĩnh trông chờ vào các quyết định sắp tới của Chính phủ. Tôi tin là Chính phủ sẽ có những giải pháp kịp thời để hỗ trợ cho nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, nhà đầu tư cũng có thể cân nhắc với lời đề nghị của tổ chức phát hành như chuyển nợ thành tài sản. Tuy nhiên cũng cần xem xét là sản phẩm đó có tiềm năng hay không và cũng xác định luôn đó phải là một khoản đầu tư dài hạn trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển nợ thành cổ phiểu của tổ chức phát hành cũng tương tự. Ngoài ra, chúng ta cũng hoàn toàn có thể chủ động thỏa thuận mức giá tốt nhất để có được nhiều lợi ích nhất khi thực hiện chuyển đổi.

PV: Trên cơ sở những diễn biến hiện tại, ông có dự báo gì về thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2023?

TS. Nguyễn Hữu Huân: Theo tôi, thị trường 2023 sẽ còn rất khó khăn và các doanh nghiệp phải chuẩn bị tâm thế đối đầu với những thách thức sắp tới khi dự báo vào thời kỳ “tiền đắt”. Sẽ mất nhiều thời gian cùng nỗ lực của các bên mới có thể vực dậy được thị trường này./.

Trân trọng cảm ơn ông!

]]>