ts cấn văn lực – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 21:00:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg ts cấn văn lực – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Cần nhiều giải pháp đồng bộ để giảm áp lực vốn cho doanh nghiệp https://trithucdoanhnhan.net/can-nhieu-giai-phap-dong-bo-de-giam-ap-luc-von-cho-doanh-nghiep/ Sat, 11 Feb 2023 12:37:57 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=1342

Các doanh nghiệp vẫn đang xoay xở nhằm giảm áp lực dòng vốn, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã nới room 1,5-2%.

Ngày 5/12, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định tăng chỉ tiêu tín dụng cho toàn hệ thống thêm khoảng 1,5 – 2%. Các chuyên gia nhận định, đây là những giải pháp linh hoạt, bám sát diễn biến của lạm phát để xây dựng chỉ tiêu định hướng và các giải pháp điều hành tiền tệ, tín dụng của Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài tín hiệu lạc quan này, doanh nghiệp vẫn đang xoay xở trước áp lực đáo hạn trái phiếu. Gần đây, một số công ty địa ốc đề xuất phương án gia hạn, hợp tác đầu tư hoặc chuyển đổi tài sản với nhiều ưu đãi nhằm tháo gỡ khó khăn cho vấn đề đáo hạn trái phiếu. Song vẫn cần Chính phủ, các cơ quan chức năng triển khai thêm các giải pháp khơi thông dòng vốn trung và dài hạn, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng.

Nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng là tín hiệu tốt

Trao đổi với Reatimes, chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc tăng trưởng tín dụng lần này là sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất tăng trưởng và phát triển trong thời gian cuối năm 2022, gối đầu 2023 để hoàn thành kế hoạch mục tiêu đề ra. Việc nới room tín dụng đợt này chủ yếu hướng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khi hoạt động cho vay tăng trưởng thì doanh nghiệp có nguồn vốn để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, thực hiện hợp đồng đã ký kết trong dịp từ nay đến Tết âm lịch.

“Như Ngân hàng Nhà nước đã nêu rõ và yêu cầu các ngân hàng cân đối vốn phù hợp để cấp tín dụng, tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp phụ trợ và các động lực tăng trưởng theo đúng chủ trương của Chính phủ, chúng ta rất hy vọng việc tăng trưởng tín dụng này sẽ đi đúng hướng, kiểm soát tốt rủi ro tín dụng và giữ tỷ lệ nợ xấu ở mức độ thấp”, ông Thịnh nói.

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh đánh giá, nhu cầu vốn cuối năm đều rất lớn ở tất cả các lĩnh vực, vậy cần phân bổ cho vay như thế nào, làm sao để từng đồng cho vay hiệu quả, tránh rủi ro nợ xấu là điều các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ theo như chỉ đạo của Thủ tướng là thận trọng, an toàn, linh hoạt và hiệu quả. Để kiểm soát nợ xấu, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc tăng trưởng tín dụng này sẽ phải đi đúng hướng, vào các nhóm ngành, lĩnh vực ưu tiên đúng như chỉ đạo của Chính phủ.

“Việc nới room tín dụng sẽ có một phần cho vay đối với các hộ gia đình, cá nhân muốn mua nhà, cho vay tiêu dùng, và phần nhỏ cho một số dự án bất động sản chuẩn bị hoàn thành nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. Các ngân hàng cũng sẽ xem xét mức độ tín dụng bất động sản một cách linh hoạt, xét đến tính khả thi của từng dự án, trong đó cần cung cấp vốn vay cho người có nhu cầu ở thực”, ông Thịnh nêu quan điểm.

Reatimes
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh (Ảnh: Reatimes)

Bên cạnh sự lạc quan về tình hình tín dụng, nhiều chuyên gia nhận định, việc trả nợ trái phiếu doanh nghiệp lúc này vẫn đang là thách thức rất lớn cần xử lý ngay. Dẫn số liệu từ Bộ Tài chính, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho biết, lũy kế 10 tháng của năm 2022, thị trường có 23 đợt phát hành trái phiếu ra công chúng với giá trị 10.599 tỷ đồng (chiếm 4% tổng giá trị phát hành) và 413 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ trị giá 240.761 tỷ đồng (chiếm 96% tổng giá trị phát hành). So với cùng kỳ năm trước, giá trị trái phiếu phát hành ra công chúng đã giảm 56% và giá trị phát hành riêng lẻ giảm 51%, trong đó nhóm ngành bất động sản chiếm 21,5% tổng giá trị phát hành, giảm mạnh 67% so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn vốn suy giảm mạnh trong năm nay khiến nhiều doanh nghiệp đang phải xoay xở để thực hiện trách nhiệm thanh toán với các trái chủ khi kỳ hạn thanh toán trái phiếu đã đến hạn, theo PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, gần đây nhiều công ty địa ốc đề xuất phương án gia hạn, hợp tác đầu tư hoặc chuyển đổi tài sản với nhiều ưu đãi nhằm tháo gỡ khó khăn. Đơn cử, một đơn vị bất động sản phía Nam đang đề xuất các phương án, như sử dụng giá trị trái phiếu đang nắm giữ để mua bất động sản của đơn vị này, với quyền tự do chuyển nhượng, hoặc gia hạn thanh toán trái phiếu thêm 24 tháng, lãi suất 12%/năm với kỳ thanh toán không thay đổi.

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nhìn nhận, xét trên góc độ kinh tế, những đề xuất thương lượng của doanh nghiệp vẫn mang lại lợi ích và đảm bảo tài sản cho trái chủ. Các giải pháp trên sẽ dễ dàng được chấp thuận hơn khi doanh nghiệp và trái chủ thương lượng các điều khoản phù hợp.

Các chuyên gia đánh giá cao nỗ lực xoay xở của các doanh nghiệp và chính sách điều hành tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước. Song, để giải tỏa được áp lực dòng vốn và đáo hạn trái phiếu cũng như bình ổn thị trường, vẫn cần thêm những thông điệp hỗ trợ và chủ trương, chính sách từ phía cơ quan quản lý.

Bình luận về về động thái cấp tiếp hạn mức tăng trưởng tín dụng 1,5 – 2% của Ngân hàng Nhà nước, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, Kinh tế Trưởng BIDV cho biết, trước bối cảnh áp lực lạm phát, lãi suất và tỷ giá trong nước và trên thế giới đã dịu bớt khá nhiều; thanh khoản hệ thống ngân hàng đã tốt lên với việc tiền gửi của dân cư tăng trở lại và nhu cầu vốn để duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất – kinh doanh, thanh khoản cuối năm của doanh nghiệp và người dân rất lớn, do đó Ngân hàng Nhà nước quyết định cấp tiếp hạn mức tăng trưởng tín dụng 1,5 – 2% vào lúc này.

Theo TS. Cấn Văn Lực, việc cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ tác động không đáng kể đến lạm phát do lượng vốn tín dụng tăng thêm khoảng gần 200.000 tỷ đồng, sẽ hấp thụ nhanh và đáp ứng các nhu cầu thiết thực đối với dự án, công trình dở dang, người vay mua nhà, các hợp đồng xuất nhập khẩu và các khoản nợ đến hạn…

“Việc cấp tiếp hạn mức tín dụng sẽ góp phần giải tỏa một phần nhu cầu vốn cuối năm của doanh nghiệp và người dân; hỗ trợ doanh nghiệp duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định thị trường và ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng cuối năm và đầu năm tới”, ông Lực nêu.

Chung tay giải tỏa áp lực dòng vốn cho doanh nghiệp

Trước động thái cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, TS. Cấn Văn Lực cũng đưa các lưu ý và khuyến nghị. Trước hết, các tổ chức tín dụng cần chủ động cân đối nguồn vốn huy động, đảm bảo thanh khoản, đảm bảo chất lượng và hiệu quả tín dụng; các bộ, ngành địa phương đẩy nhanh, hiệu quả giải ngân đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình phục hồi 2022 – 2023 nhằm giảm áp lực nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng, giảm nợ đọng xây dựng cơ bản giữa các doanh nghiệp, tăng tính lan tỏa và tạo động lực tăng trưởng trước mắt và lâu dài.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo khoanh vùng, giải quyết nhanh, dứt điểm những vụ việc vi phạm trên thị trường vốn vừa qua, đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, lấy lại niềm tin của thị trường, người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, TS. Cấn Văn Lực cũng mong muốn Bộ Tài chính sẽ khơi thông mạnh mẽ kênh dẫn vốn từ trái phiếu doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp thanh toán nợ đáo hạn.

Reatimes
TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, Kinh tế Trưởng BIDV (Ảnh: Reatimes)

Cùng bàn về kênh trái phiếu doanh nghiệp, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc ổn định và phát triển thị trường này, trong đó có việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư là vô cùng quan trọng, nhưng mấu chốt vẫn cần tạo điều kiện giúp doanh nghiệp xử lý vấn đề đáo hạn trái phiếu.

“Việc chú trọng bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư như Nghị định 65 là quan trọng và cần thiết, tuy nhiên phải xác định đây là hợp đồng dân sự giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư. Do đó, các điều khoản của Nghị định nên vừa phải chứ đến mức doanh nghiệp không thể phát hành trái phiếu được thì cần sớm điều chỉnh.

Cần xác định đây là thị trường tiềm năng đối với nhà phát hành lẫn nhà đầu tư và việc xử lý thị trường trái phiếu cần chú ý đến niềm tin của các trái chủ đối với thị trường. Việc chung tay của Nhà nước trong quản lý phát hành là cần thiết, song, rõ ràng việc quyết định mua hay không mua, lãi suất và độ an toàn của trái phiếu như thế nào phải do nhà đầu tư tự xem xét quyết định. Nghị định 65 chú trọng bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư là rất tốt, nhưng Nghị định này đang quá chặt chẽ thì rất khó cho doanh nghiệp huy động vốn”, ông Thịnh nói.

Ngoài ra, để giữ được niềm tin của nhà đầu tư trong thời điểm hiện tại, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh nhấn mạnh, điều tiên quyết là các doanh nghiệp phát hành phải tìm cách bố trí nguồn vốn để trả nợ vay cho trái chủ đúng thời hạn. Nếu không, doanh nghiệp phải xem xét đẩy mạnh khả năng tiếp tục phát hành trái phiếu đảo nợ như Nghị định 65 đã cho phép. Trong trường hợp không phát hành được trái phiếu thì doanh nghiệp cần chủ động liên hệ trước với trái chủ để đàm phán. Nếu trái chủ cảm thấy doanh nghiệp có phương án tốt, kế hoạch đầu tư tốt, vấn đề tài chính tốt và sòng phẳng, với mức lãi suất phù hợp với thị trường hiện tại nhưng cũng không quá khả năng của doanh nghiệp, thì họ có thể đồng ý gia hạn trái phiếu.

Nếu không đàm phán được với trái chủ, doanh nghiệp phải tìm cách chuyển hóa trái phiếu thành cổ phần. Đây cũng là phương án tốt vì nhà đầu tư sau này sẽ được hưởng lợi ích từ sự hồi phục và phát triển của doanh nghiệp. Cuối cùng, doanh nghiệp buộc phải tính đến phương án bán những tài sản bảo đảm để trả nợ cho trái chủ và giữ uy tín, tên tuổi của mình.

Tuy nhiên, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cũng nêu, khi doanh nghiệp làm thủ tục xin phá sản, mặc dù là đối tượng được ưu tiên thanh toán, nhưng nhà đầu tư vẫn phải theo thứ tự ưu tiên, có khi sẽ không đảm bảo lợi ích đến cùng. Do đó, nếu trái chủ thiện chí hợp tác với doanh nghiệp để cùng phục hồi và phát triển thì sẽ thuận lợi hơn.

Ngoài ra, PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh cũng nêu thêm phương án, với vai trò thiết kế khuôn khổ pháp lý, giám sát quá trình phát hành trái phiếu để doanh nghiệp thực hiện đúng chính sách, trong điều kiện một số doanh nghiệp đang khó khăn, Chính phủ có thể giao nhiệm vụ cho cơ quan chuyên môn có thẩm quyền mua lại trái phiếu của một số doanh nghiệp.

“Việc mua lại có thể thông qua Ủy ban quản lý vốn Nhà nước hoặc cơ chế khác, trong một thời hạn nhất định, nếu đáp ứng được các điều kiện đặt ra như có tài chính tốt, có tài sản đảm bảo và khả năng trả nợ tốt… Sau khi doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh thì có thể bán lại trái phiếu cho doanh nghiệp với lãi suất cao hơn”, chuyên gia Đinh Trọng Thịnh nói./.

]]>
Ngành Xây dựng bước qua một năm phục hồi để phát triển nhanh chóng và ổn định https://trithucdoanhnhan.net/nganh-xay-dung-buoc-qua-mot-nam-phuc-hoi-de-phat-trien-nhanh-chong-va-on-dinh/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:36 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2062

Ngành Xây dựng đánh giá năm 2022 là năm phục hồi nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Dự báo năm 2023, các hoạt động kinh tế, xã hội sẽ chuyển từ thích ứng, phục hồi sang phát triển nhanh chóng và ổn định hơn.

Nhìn lại một năm “phục hồi”

Theo Bộ Xây dựng, năm 2022 là một năm phục hồi, có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2026.

Về công tác chỉ đạo, điều hành, năm vừa qua, Chính phủ đã ban hành một số nghị quyết bao gồm: Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 10/01/2022 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022.

Ngay sau khi Chính phủ ban hành các nghị quyết trên, ngày 20/1/2022, Bộ Xây dựng đã ban hành Chương trình hành động kèm theo Quyết định số 28/QĐ-BXD để triển khai với 15 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và 80 nhiệm vụ cụ thể. Tiếp đó, ngày 25/4/2022, Nghị quyết số 19-NQ/BCSĐ cũng được ban hành về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của ngành Xây dựng năm 2022.

Nhờ xác định đúng, đủ, tập trung chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ then chốt mà Bộ Xây dựng đã tạo chuyển biến tích cực, cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội được đề ra trong năm 2022.

Ngành Xây dựng bước qua một năm phục hồi để phát triển nhanh chóng và ổn định
Năm 2022 là một năm phục hồi, có ý nghĩa quan trọng và tạo nền tảng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. (Ảnh: Hà Trang)

Về tình hình thực hiện một số chỉ tiêu, kế hoạch năm 2022, ngành Xây dựng đã đạt nhiều kết quả tốt so với cùng kỳ năm 2021.

Theo đó, các chỉ số tích cực “biết nói” bao gồm: tốc độ tăng trưởng của ngành Xây dựng ước tính đạt 8 – 8,5%; tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc ước đạt 41,7%, tăng 1,2% so với năm 2021; tỷ lệ lập quy hoạch chung đô thị đạt 100%; diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 25,5m2 sàn/người, tăng 0,5m2 sàn/người so với năm 2021; tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 94,2%, tăng 2,2% so với năm 2021;…

Tuy nhiên, về vật liệu xây dựng, giá trị sản xuất xi măng ước tính sản lượng sản xuất đạt 85,36 triệu tấn, giảm 9,92% so với năm 2021; tiêu thụ 87,31 triệu tấn, giảm 9,81% so với năm 2021.

Về kết quả đạt được trong các lĩnh vực quản lý, trong năm vừa qua, Bộ Xây dựng đã chú trọng và tập trung vào nhiều phạm vi hoạt động của các công tác. Cụ thể, đối với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, Bộ đã trình Chính phủ báo cáo Quốc hội hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); đã lập hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn)… Đối với công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc, tiếp tục cho triển khai công tác lập quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050;… Đối với công tác quản lý hoạt động đầu tư xây dựng, tăng cường nắm bắt, theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng;…

Đặc biệt trong đó, công tác quản lý, phát triển nhà ở và thị trường bất động sản đã đạt được nhiều dấu mốc quan trọng.

“Cán cân” thị trường bất động sản đã cân đối trở lại

TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV từng đưa ra đánh giá về thị trường bất động sản trong năm 2022 là “đầu năm hưng phấn, giữa và cuối năm trầm lắng”. 

Thật vậy, năm vừa qua là một năm lên bổng xuống trầm của thị trường bất động sản. Những ngày cuối năm, ngành địa ốc vẫn đang đối diện tình trạng thiếu nguồn cung ở tất cả phân khúc sản phẩm và cơ cấu hàng hóa không phù hợp, thiếu trầm trọng nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ. Trong khi đó, giá nhà ở riêng lẻ, đất nền, căn hộ chung cư vẫn “neo” cao từ thời điểm cuối quý II/2022 đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản và lượng giao dịch của thị trường, đặc biệt là thị trường thứ cấp.

Ngoài ra, tín dụng bất động sản vẫn còn là nỗi lo của nhiều nhà đầu tư lẫn doanh nghiệp khi theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 9 tháng đầu năm 2022, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản ở mức 796.689 tỷ. 

Ngành Xây dựng bước qua một năm phục hồi để phát triển nhanh chóng và ổn định
Tình hình thị trường bất động sản năm 2022 đã có dấu hiệu hồi phục và phát triển. (Ảnh: Hà Trang)

Tuy nhiên, nhìn vào khía cạnh tích cực, theo kết quả báo cáo sơ bộ của các địa phương năm 2022 cho thấy tổng số lượng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp đã khởi công là 19 dự án với tổng số khoảng 33.194 căn, tổng diện tích xây dựng khoảng 1.802.932m2.

Bên cạnh đó, các chương trình phát triển nhà ở xã hội tại Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng được đẩy mạnh. Đến nay, cả nước đã hoàn thành 301 dự án nhà ở xã hội khu vực đô thị và nhà ở công nhân khu công nghiệp, quy mô xây dựng khoảng 155.800 căn, với tổng diện tích hơn 7.790.000m2. Đang tiếp tục triển khai 401 dự án, với quy mô xây dựng khoảng 454.360 căn, với tổng diện tích khoảng 22.718.000m2 ; trong đó có 245 dự án với quy mô 300.000 căn hộ đang thực hiện thủ tục đầu tư và có 156 dự án với quy mô 156.700 căn hộ đang đầu tư xây dựng.

Đánh giá một cách khả quan thì tình hình thị trường bất động sản năm 2022 đã có dấu hiệu hồi phục và phát triển với tổng lượng giao dịch căn hộ chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền cao hơn so cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ hấp thụ sản phẩm ở hầu hết các phân khúc ở mức cao; tỷ lệ trống văn phòng, mặt bằng thương mại cho thuê giảm dần. Bộ Xây dựng đánh giá về cơ bản thị trường đã cân bằng trở lại giữa hoạt động đầu tư, kinh doanh với mua bán để sử dụng. Tuy nhiên, thị trường bất động sản vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây bất ổn, từ nguy cơ “bóng bóng” chuyển sang nguy cơ “suy thoái”, thiếu nguồn cung ở các phân khúc, cơ cấu hàng hóa bất động sản chưa phù hợp với nhu cầu thị trường, thiếu trầm trọng nhà ở xã hội và nhà ở thương mại giá rẻ. Có hiện tượng các sàn giao dịch bất động sản câu kết với nhau “ôm hàng”, “làm giá”, “tạo sóng”, “thổi giá”, gây “sốt ảo” ăn chênh lệch làm nhiễu loạn thị trường. Giá bất động sản tăng cao gây khó khăn cho những người mua có nhu cầu ở thực

Hướng tới năm “bản lề” của nhiệm kỳ 2021 – 2026

Có thể thấy, năm 2022 là một bức tranh đa màu sắc khi ngành xây dựng đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng cũng đứng trước nhiều thách thức, hạn chế. Nhìn về những khó khăn vẫn còn tồn đọng, nền kinh tế trong nước đang phải ứng phó với những vấn đề lớn phát sinh và chưa có tiền lệ. Tình hình chung trên thế giới được dự báo sẽ tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường hơn.

Tuy nhiên, cần phải gạt bỏ những khó khăn để nỗ lực cho tương lai. Bước sang năm 2023, ngành Xây dựng nhận định đây là năm giữa nhiệm kỳ, là năm “bản lề” để thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. Qua đó, cần nỗ lực thật tốt để tạo động lực cho những năm tiếp theo.

Theo đó, trong năm tới, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách năm 2023, bám sát chủ đề năm của Chính phủ để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp.

Ngành Xây dựng bước qua một năm phục hồi để phát triển nhanh chóng và ổn định
Năm 2023 là năm “bản lề” để thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. (Ảnh: Hà Trang)

Về các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể trong năm 2023, ngành Xây dựng phấn đấu tốc độ tăng trưởng về xây dựng đạt 6,5 – 7%; tỷ lệ đô thị hóa cả nước tính theo khu vực nội thành/nội thị ước đạt 42,6%; tỷ lệ đô thị hóa cả nước tính theo khu vực toàn đô thị ước đạt 53,9%; tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 96%; diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 26m2 sàn/người; sản lượng sản xuất xi măng khoảng 93,13 triệu tấn…

Ngành Xây dựng xác định sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm như nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế, phát triển và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật; đẩy mạnh công tác các quản lý đầu tư xây dựng, giám sát chất lượng công trình, quản lý quy hoạch, kiến trúc, quản lý phát triển đô thị, quản lý hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhà ở và thị trường bất động sản, quản lý vật liệu xây dựng; chú trọng công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh gắn với xây dựng Chính phủ điện tử, công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước do Bộ Xây dựng làm đại diện và sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập…

Ngoài ra, Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng giai đoạn 2022 – 2030 và Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngành Xây dựng đến năm 2030 cũng sẽ được ban hành bên cạnh một số công tác quan trọng khác./.

]]>