ts nguyễn trí hiếu – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:59:26 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.net/2025/08/trithucdoanhnhan-icon.svg ts nguyễn trí hiếu – Trithucdoanhnhan.net https://trithucdoanhnhan.net 32 32 Doanh nghiệp rất khó vay vốn ưu đãi vì không thể chứng minh “có khả năng phục hồi“ https://trithucdoanhnhan.net/doanh-nghiep-rat-kho-vay-von-uu-dai-vi-khong-the-chung-minh-co-kha-nang-phuc-hoi/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:39 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2021

Sau hơn nửa năm áp dụng, doanh nghiệp vẫn rất khó tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2%. Nhiều chuyên gia đặt ra vấn đề thay đổi tiêu chí tiếp cận hoặc chuyển hướng hỗ trợ để giải tỏa vấn đề nguồn vốn cho doanh nghiệp.

Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, có hiệu lực từ ngày 20/5/2022. Gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước là niềm hy vọng giúp doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có nguồn vốn để sớm phục hồi sản xuất, kinh doanh sau đại dịch Covid-19. Đối với lĩnh vực bất động sản, gói hỗ trợ lãi suất này áp dụng cho các dự án xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo chung cư cũ. Song thực tế đã không được như kỳ vọng, khi số tiền giải ngân hỗ trợ quá thấp so với mục tiêu đề ra.

Gói hỗ trợ lãi suất 2% triển khai quá chậm

Quy mô của gói hỗ trợ này lên tới 2 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng, trong đó các ngân hàng ước tính sẽ dành khoảng 800 nghìn tỷ đồng dư nợ cho vay trong năm nay để giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp đủ điều kiện (tương đương khoảng 16.035 tỷ đồng) và 1,2 triệu tỷ đồng triển khai trong năm sau. Các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tính trên số dư nợ vay và thời hạn cho vay hỗ trợ lãi suất thực tế nằm trong khoảng thời gian quy định; ngân hàng sẽ thực hiện giảm số lãi tiền vay.

Tuy nhiên, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 10/2022, sau hơn nửa năm thực hiện Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất 2% từ ngân sách, các ngân hàng thương mại mới giải ngân được dư nợ gần 21.000 tỷ đồng, và số tiền thực hiện hỗ trợ lãi suất chỉ đạt gần 45 tỷ đồng. Đây là những con số quá thấp so với kỳ vọng đặt ra của Nghị quyết 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Trao đổi với Reatimes, PGS.TS. Nguyễn Thùy Dương – Trưởng khoa Ngân hàng Học viện Ngân hàng cho biết, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% thấp hơn nhiều so với kỳ vọng và mục tiêu đặt ra.

“Các hợp đồng vay vốn ký kết trước ngày 1/1/2022 sẽ không thuộc thời gian được hỗ trợ chính sách này, chính vì vậy đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi thu hẹp hơn, trong khi đó những khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid -19 đã phát sinh từ đầu 2020.

Bên cạnh đó, với đối tượng vay vốn mặc dù được hỗ trợ lãi suất nhưng vẫn phải đảm bảo đủ các điều kiện vay vốn của các ngân hàng thương mại như dòng tiền ổn định, có doanh thu, có lợi nhuận, không có nợ xấu, có tài sản bảo đảm… Tuy nhiên, trong bối cảnh 2 năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, để đáp ứng được đầy đủ các điều kiện trên là điều không dễ dàng”, bà Dương nêu.

Doanh nghiệp rất khó vay vốn ưu đãi vì không thể chứng minh “có khả năng phục hồi“
Các dự án xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, cải tạo chung cư cũ cũng thuộc đối tượng được vay ưu đãi, song thực tế rất khó tiếp cận. (Ảnh: TTXVN)

Trong lĩnh vực bất động sản, PGS.TS. Nguyễn Thùy Dương cho biết, đối với các khoản vay hỗ trợ nhà ở xã hội trong giai đoạn vừa qua, chủ đầu tư gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Nguyên nhân là các ngân hàng thương mại thực hiện cấp tín dụng phải đảm bảo nguyên tắc và điều kiện tín dụng theo quy định. Cho dù là ưu đãi nhưng các dự án nhà ở xã hội vẫn phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện như về uy tín, lịch sử vay vốn, vốn đối ứng tham gia vào dự án, dòng tiền và khả năng hoàn trả nợ vay…  mới được ngân hàng thực hiện cho vay.

Đồng thời, việc triển khai dự án nhà ở xã hội trong thời gian qua có nhiều bất lợi còn do giá nguyên vật liệu tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ và làm thay đổi dòng tiền, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong quá trình giải ngân.

Trao đổi với báo chí, đại diện Ngân hàng Nhà nước cũng nêu ra những nguyên nhân khiến việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% bị chậm. Theo đó, có doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng từ chối nhận hỗ trợ lãi suất do tâm lý e ngại, cân nhắc giữa lợi ích từ hỗ trợ lãi suất 2% và chi phí bỏ ra khi nhận hỗ trợ. Nhiều khách hàng lo ngại trong trường hợp bị xác định phải thu hồi gói hỗ trợ nếu sau đó xác định cho vay không đúng đối tượng, thì rất khó xử lý vì đã hạch toán lợi nhuận hoặc chia cổ tức.

Ngoài ra, cũng có khách hàng đủ năng lực tài chính, có lịch sử tín dụng tốt, được các ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi, nhưng từ chối nhận hỗ trợ lãi suất.

Cần thay đổi tiêu chí tiếp cận hoặc chuyển hướng hỗ trợ

Để được vay vốn trong gói hỗ trợ lãi suất 2%, khách hàng cần phải đáp ứng nhiều yêu cầu, trong đó có “khả năng phục hồi”. PGS.TS. Nguyễn Thùy Dương cho rằng, quy định này cũng là nguyên nhân khiến gói hỗ trợ lãi suất 2% chậm giải ngân.

“Các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc xác định đối tượng thuộc diện hỗ trợ chương trình, đặc biệt là khó khăn trong đánh giá khả năng phục hồi của khách hàng sau khi nhận hỗ trợ, nhất là trong điều kiện có nhiều diễn biến thay đổi như hiện nay”, bà Dương nêu thực tế.

Doanh nghiệp chứng minh được khả năng trả nợ nhưng cũng không thể khẳng định có “khả năng phục hồi”. Việc đánh giá các tiêu chí “khả năng phục hồi” (như doanh thu, sản lượng, lợi nhuận, diễn biến chiều hướng kinh doanh…) rất khó, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, đồng USD tăng giá, áp lực lạm phát chưa thực sự hạ nhiệt, chi phí sản xuất tăng, phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu…

Doanh nghiệp rất khó vay vốn ưu đãi vì không thể chứng minh “có khả năng phục hồi“
Cần thay đổi tiêu chí tiếp cận để hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn. (Ảnh: TTXVN)

Thừa nhận vướng mắc này, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét không đặt ra quy định về khách hàng “có khả năng phục hồi”, đồng thời cho phép điều chuyển phần dự toán không sử dụng hết sang các nhiệm vụ khác, như các chương trình cho vay hỗ trợ khôi phục kinh tế thông qua ngân hàng chính sách xã hội, hiện đang giải ngân rất tốt.

Đề xuất giải pháp, PGS.TS. Nguyễn Thùy Dương cho rằng, các ngân hàng thương mại tham gia triển khai các gói hỗ trợ cần thống nhất về cách xác định đối tượng hỗ trợ, phương thức đánh giá khả năng phục hồi của khách hàng sau khi nhận hỗ trợ, cách thức giải ngân và các điều kiện cho vay khác. Đồng thời, các doanh nghiệp thuộc đối tượng hỗ trợ cần chủ động chia sẻ với ngân hàng thông tin đầy đủ về tình hình kinh doanh, thực tế sản xuất và các kế hoạch phục hồi.

“Khi có đủ thông tin, các ngân hàng thương mại sẽ có đủ cơ sở đánh giá và hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời theo chủ trương của Nhà nước”, bà Dương nói.

Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng, gói hỗ trợ lãi suất 2% là tiền hỗ trợ từ ngân sách, nên chứng từ phải chặt chẽ. Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các ngân hàng thương mại không được từ chối các khách hàng đủ điều kiện, không gây thêm phiền hà cho khách hàng, chứ không phải hạ chuẩn cho vay.

“Ngành ngân hàng có thể cho phép các doanh nghiệp vay vốn thông qua kế hoạch kinh doanh chi tiết khi sử dụng vốn vay, chứng minh dòng tiền thu về trong vòng một năm, thay vì đòi hỏi yếu tố tài sản bảo đảm”, ông Hiếu đề xuất.

Cũng theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, hộ kinh doanh dịch vụ thu nhập thấp lại xuất phát từ việc địa phương chưa quy định mức thu nhập bao nhiêu là thấp. Trong khi có hợp tác xã đủ điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, nhưng không có hóa đơn đỏ theo yêu cầu của Bộ Tài chính, mà chỉ có hóa đơn bán lẻ, hợp đồng mua bán những trường hợp này cần xem xét lại cho phù hợp.

Bên cạnh đó, một số chuyên gia cũng đề nghị Chính phủ xem xét chuyển nguồn hỗ trợ lãi suất 2% chưa giải ngân được sang nguồn hỗ trợ miễn giảm thuế, phí, lệ phí, gia hạn thời gian nộp thuế tiền thuê đất cho các doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn hiện nay./.

]]>
Sửa Nghị định 65: Phải khắc phục tình trạng “con gà quả trứng” trong xếp hạng tín nhiệm https://trithucdoanhnhan.net/sua-nghi-dinh-65-phai-khac-phuc-tinh-trang-con-ga-qua-trung-trong-xep-hang-tin-nhiem/ Sat, 11 Feb 2023 12:18:33 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2118

Các chuyên gia cảnh báo tình trạng quá tải hệ thống xếp hạng tín nhiệm nếu không thực hiện thí điểm dần để tạo lượng khách hàng “mồi” nhằm nâng số lượng nguồn cung cấp dịch vụ xếp hạng trên thị trường.

Trên cơ sở tham vấn ý kiến của doanh nghiệp, VCCI vừa có văn bản góp ý về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế.

Trước đó, giữa tháng 12, Bộ Tài chính trình Chính phủ Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 65/2022/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu riêng lẻ nhằm tháo gỡ các khó khăn phát sinh hiện nay với nhiều điểm đáng chú ý, trong đó, có đề xuất thời gian thực hiện quy định về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp lùi lại 1 năm, áp dụng từ ngày 1/1/2024. Đồng thời, quy định về yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm sẽ áp dụng từ ngày 1/1/2024 thay vì từ ngày 1/1/2023 như quy định tại Nghị định 65.

Theo các chuyên gia, đề xuất của Bộ Tài chính là tín hiệu đáng mừng đối với các doanh nghiệp. Nhất là trong lĩnh vực bất động sản, khi hầu hết số vốn doanh nghiệp có được do phát hành trái phiếu đều đang nằm trong các dự án dở dang và các sản phẩm chưa bán ra được để thu hồi trả nợ. Vì vậy việc sửa đổi Nghị định 65 sẽ tạo dư địa, cho phép các nhà phát hành, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng và công ty chứng khoán có thêm thời gian xử lý vấn đề trái phiếu.

Trong văn bản góp ý gửi Bộ Tài chính, VCCI đánh giá các quy định tại Nghị định 65 đã khắc phục nhiều vấn đề bất cập so với Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, quy định về thời điểm có hiệu lực và quy định chuyển tiếp của Nghị định 65 chưa thực sự hợp lý. Một số thay đổi chính sách lớn có thời gian thực hiện quá ngắn khiến các doanh nghiệp phát hành, nhà đầu tư và các bên liên quan khác không đủ thời gian chuẩn bị.

Đây là thời điểm thị trường tài chính Việt Nam và toàn cầu có những biến động vĩ mô lớn, ảnh hưởng bất lợi đến việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc sửa đổi các quy định về thời điểm có hiệu lực và quy định chuyển tiếp của Nghị định 65 là cần thiết.

Sửa Nghị định 65: Phải khắc phục tình trạng “con gà quả trứng” trong xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm là cơ sở rất quan trọng để tăng cường lòng tin của thị trường (Ảnh: Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính)

Đồng tình với việc giãn thời gian thực hiện quy định về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 01 năm, VCCI đánh giá, tại Tờ trình của Dự thảo, cơ quan soạn thảo đã phân tích kỹ các tác động tích cực và tiêu cực của quy định này. Cơ quan soạn thảo cũng đã đưa ra giải pháp hạn chế tác động tiêu cực là tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền cảnh báo rủi ro và tăng cường giám sát để kịp thời phát hiện vi phạm.

Đây là các biện pháp hợp lý và đề nghị cơ quan soạn thảo thực hiện tốt các biện pháp này trong năm 2023. Thêm vào đó, đề nghị Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước để quán triệt các ngân hàng thương mại khi môi giới bán trái phiếu thì cần tư vấn đầy đủ về rủi ro cho các nhà đầu tư cá nhân.

Tuy nhiên, trước đề xuất cho phép giãn thực hiện quy định về yêu cầu bắt buộc xếp hạng tín nhiệm trong vòng 1 năm của Bộ Tài chính, thực hiện từ ngày 1/1/2024 thay vì từ ngày 1/1/2023 như quy định tại Nghị định 65. (Đối với trái phiếu chào bán ra công chúng, doanh nghiệp phát hành vẫn phải xếp hạng tín nhiệm từ đầu năm sau), VCCI cho rằng, cần nhận thức rõ xếp hạng tín nhiệm là cơ sở rất quan trọng để làm lành mạnh hóa thị trường, tăng cường lòng tin của thị trường, đưa thị trường trái phiếu Việt Nam tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.

“Vấn đề xếp hạng tín nhiệm từ trước đến nay vẫn gặp tình trạng “con gà quả trứng” – khi chưa có cầu thì rất khó có cung, và khi chưa có cung rất khó quy định bắt buộc. Nếu áp dụng ngay lập tức quy định xếp hạng tín nhiệm bắt buộc kể từ 1/1/2023 sẽ gây nhiều khó khăn cho việc phát hành trái phiếu do các đơn vị cung cấp dịch vụ chưa đủ sức phục vụ một lượng lớn khách hàng như hiện nay. Nhưng nếu lùi thời hạn áp dụng đến 1/1/2024 như Bộ Tài chính đề xuất thì có thể vẫn sẽ lặp lại tình trạng này nếu như trong năm 2023 không có đơn vị phát hành nào sử dụng dịch vụ”, VCCI nhận định.

Để khắc phục mâu thuẫn này, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án khoanh vùng một số doanh nghiệp phát hành buộc phải có xếp hạng tín nhiệm trong năm 2023, sau đó đến năm 2024 mới áp dụng đại trà. Đối tượng doanh nghiệp buộc phải áp dụng trước nên lựa chọn một số ngành, lĩnh vực có thông tin tài chính tương đối lành mạnh.

Theo VCCI, biện pháp này được kỳ vọng sẽ tạo một lượng khách hàng “mồi” cho thị trường dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, bước đầu tạo thói quen và sự tin tưởng của nhà đầu tư vào các báo cáo xếp hạng tín nhiệm, trước khi áp dụng bắt buộc đại trà cho tất cả các doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

Cùng đánh giá cao vai trò của xếp hạng tín nhiệm, trao đổi với Reatimes, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết, ông đồng tình với việc lùi thời gian áp dụng tiêu chuẩn nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp đến ngày 1/1/2024. Tuy nhiên, cứ cho là khi không còn ràng buộc này, nhà đầu tư sẽ hăm hở trở lại thị trường thì việc lùi thời hạn xếp hạng tín nhiệm càng phải cân nhắc. Bởi, nếu đã mở đường cho nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường thì càng phải tăng tính minh bạch của thị trường thông qua xếp hạng tín nhiệm.

Sửa Nghị định 65: Phải khắc phục tình trạng “con gà quả trứng” trong xếp hạng tín nhiệm
Chuyên gia Tài chính – Ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu (Ảnh: IT)

“Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 65 là để tháo gỡ khó khăn trên thị trường trái phiếu. Thị trường hầu như “đóng băng” và nhà đầu tư tạm ngừng hoạt động giao dịch. Để khuyến khích các nhà đầu tư tiếp tục tham gia thị trường, Bộ Tài chính đã đưa ra một số đề xuất thay đổi rất căn bản. Trong đó, có đề xuất hoãn xếp hạng tín nhiệm trong vòng 1 năm.

Nhưng nếu cho rằng hoãn xếp hạng tín nhiệm để giảm chi phí cho doanh nghiệp thì chưa hẳn. Mặc dù chi phí vài chục triệu đến vài trăm triệu không phải là nhỏ, nhưng vẫn không đáng kể với các nhà phát hành lớn. Ở chiều ngược lại, nên có xếp hạng tín nhiệm tại thời điểm này, đặc biệt là khi mở rộng thị trường cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ, là những đối tượng không có khả năng phân tích tài chính, tín dụng và dễ lao vào những sự mời gọi của các nhà phát hành thông qua việc tăng lãi suất hay các chiêu trò nhằm tăng uy tín của họ như đã xảy ra trong quá khứ”, ông Hiếu nói.

TS. Nguyễn Trí Hiếu cũng đồng tình với đề xuất của Bộ Tài chính về việc cho phép doanh nghiệp được thay đổi kỳ hạn, hoán đổi trái phiếu đã phát hành theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu tối đa không quá 2 năm so với kỳ hạn tại phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư.

“Tôi ủng hộ đề xuất này vì các doanh nghiệp đang rất khó khăn. Tuy nhiên, các nhà phát hành có thể phải tăng lãi suất trong hai năm đó để bù đắp cho việc các nhà đầu tư phải chờ đợi, trong khi lãi suất trên thị trường tài chính cũng đang tăng. Và nếu có thể, nên trả lãi cho các nhà đầu tư trong thời hạn 2 năm để các nhà đầu tư yên tâm tiền của họ sẽ được trả lại”, TS. Nguyễn Trí Hiếu đề xuất. 

]]>
Vẫn cần duy trì chính sách hỗ trợ doanh nghiệp “vượt khó” trong năm 2023 https://trithucdoanhnhan.net/van-can-duy-tri-chinh-sach-ho-tro-doanh-nghiep-vuot-kho-trong-nam-2023/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:57 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=2939

Nhiều chuyên gia đồng tình, việc duy trì chính sách gia hạn, giảm thuế là hết sức cần thiết nhằm giúp doanh nghiệp tiếp tục phục hồi, ổn định sản xuất và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tốt hơn trong năm 2023.

Nêu ý kiến tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ đầu năm mới 2023, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết, từ cuối năm 2022, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã chuẩn bị, nghiên cứu và đề xuất một loạt các giải pháp liên quan đế chính sách tài khóa và chính sách thuế để tiếp tục hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong năm 2023. Có thể thấy, những đề xuất của Bộ Tài chính đang được trông đợi.

Bộ Tài chính sẽ có các chính sách hỗ trợ về thuế trong năm 2023

Về cơ bản, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi cho biết, các chính sách về thuế, phí, hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân trong năm 2023 sẽ tương tự các chính sách áp dụng trong năm 2022. Mặc dù có một số điều chỉnh, song lãnh đạo Bộ Tài chính khẳng định các chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vẫn được duy trì. Đồng thời, các kịch bản khác cũng được chuẩn bị sẵn sàng nếu tình hình năm 2023 có những diễn biến mới, cần có sự tác động, hỗ trợ từ chính sách tài khóa.

“Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu, đề xuất các chính sách về thuế, phí để tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp, người dân trong năm 2023”, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi cho biết.

Vẫn cần duy trì chính sách hỗ trợ doanh nghiệp “vượt khó” trong năm 2023
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi. Ảnh: VGP

Lãnh đạo Bộ Tài chính cũng cho biết, theo phương án huy động nguồn lực cho các chương trình phục hồi kinh tế, năm 2022 đã thực hiện bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển 38,15 nghìn tỷ đồng (gồm 18,58 nghìn tỷ đồng nhiệm vụ thuộc chương trình phục hồi và 19,57 nghìn tỷ đồng nhiệm vụ thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 sử dụng nguồn vốn của chương trình) theo Nghị quyết số 584/NQ-UBTVQH15. Để thực hiện các nhiệm vụ còn lại của chương trình, hiện Bộ Tài chính đang dự thảo đề án huy động khoảng 157.000 tỷ đồng cho các chương trình phục hồi kinh tế trong năm 2023.

“Trong đó, tập trung huy động từ nguồn trái phiếu Chính phủ nội tệ và vay ODA, ưu đãi nước ngoài; các nguồn vay hợp pháp khác cho chương trình sẽ chỉ sử dụng khi nhu cầu huy động vốn tăng cao và thị trường trái phiếu Chính phủ, vay nước ngoài không đáp ứng đủ”, đại diện Bộ Tài chính nêu rõ.

Cũng tại họp báo Chính phủ thường kỳ đầu năm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đề nghị nhanh chóng thúc đẩy giải ngân đầu tư công, thực hiện giảm, giãn thuế, điều chỉnh giá bất động sản… để khơi thông dòng tiền giữa các khu vực trong nền kinh tế. Nếu quá phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng có thể gây hệ lụy và rủi ro trong tương lai vì các chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng của Việt Nam đã và đang ở ngưỡng cảnh báo.

Về phía ngành ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, ngành ngân hàng sẽ tập trung thực hiện các giải pháp cải cách, đơn giản thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân.

“Tuy nhiên, đối với nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn, cần các giải pháp chính sách hỗ trợ khác từ phía Nhà nước như bảo lãnh tín dụng, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được thực thi hiệu quả”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng gợi ý.

Vẫn cần duy trì chính sách gia hạn, giảm thuế cho doanh nghiệp trong năm 2023

Một số chính sách hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp hiện đã kết thúc trong năm 2022, song dự báo năm 2023, các thành phần của nền kinh tế vẫn khó khăn và rất cần sự hỗ trợ.

Trao đổi với Reatimes, chuyên gia tài chính – ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết: “Vấn đề giãn thuế và giảm thuế là yêu cầu của tất cả các nền kinh tế và đương nhiên tôi rất đồng tình. Hãy tìm mọi cách để giãn thuế, giảm thuế trong trường hợp có thể để giúp các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng”.

Theo đó, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh, thứ nhất, cần đẩy nhanh giải ngân đầu tư công, bằng một cơ chế đấu thầu công khai, minh bạch. Hiện các dự án chưa giải ngân hoặc số vốn đã giải ngân đạt rất thấp còn tương đối nhiều. Đây chính là nguyên nhân kéo tỷ lệ giải ngân của cả nước đạt thấp. Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 12 tháng năm 2022 đạt 67,27% kế hoạch. Nếu so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao thì tỷ lệ giải ngân đạt 75,11%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 (77,30%).

“Có thể hiểu, việc giải ngân đầu tư công phụ thuộc rất nhiều vấn đề, như ách tắc ở giải tỏa đền bù, giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án hay những điều kiện ràng buộc với hiệp ước thương mại, tài trợ của các cơ quan quốc tế nên nhiều khi có tiền nhưng không triển khai giải ngân được. Đặc biệt năm nay ở Việt Nam, nhiều địa phương gặp khó khăn nên triển khai đầu tư công rất chậm, nhưng vấn đề này cần quyết liệt hơn trong năm 2023”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhìn nhận.

Reatimes
Chuyên gia Tài chính – Ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu. Ảnh: IT

Thứ hai, chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội trong 2 năm tới được Quốc hội thông qua đầu năm 2022 với tổng giá trị khoảng 350.000 tỷ đồng nhưng việc giải ngân chậm đang ảnh hưởng đến sự hồi phục của các thành phần kinh tế. TS. Nguyễn Trí Hiếu đặt vấn đề: “Chính sách hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp vay từ đầu năm 2022 đến hết năm 2023 với kinh phí 40.000 tỷ đồng, nhưng hiện bao nhiêu doanh nghiệp được hưởng hỗ trợ lãi suất đó? Chúng ta cần nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc để giải phóng nguồn lực tài chính giúp tất cả các thành phần kinh tế có vốn hoạt động sản xuất – kinh doanh”.

Thứ ba, theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đóng cửa vì dịch bệnh, Ngân sách Nhà nước rất eo hẹp. Tuy nhiên, trong năm 2022, Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH13, các nghị quyết về giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng, dầu, đã có tác dụng kiềm chế lạm phát của Việt Nam ở mức dưới 4% và phần nào hỗ trợ các thành phần kinh tế.

Riêng năm 2022, báo cáo tổng kết năm 2022 của Bộ Tài chính cho thấy, tổng thu ngân sách do ngành Thuế quản lý ước đạt 1.460.100 tỷ đồng, bằng 124,3% dự toán, tăng 8,5% so với thực hiện năm 2021, với 63/64 đơn vị thu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách được giao. 

“Chính phủ có thể cân đối với việc giãn thuế, giảm thuế, hài hòa lợi ích với doanh nghiệp. Việc triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng, quyết định tới mục tiêu ổn định, duy trì đà phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2023”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nhấn mạnh.

Cùng quan điểm, PGS.TS. Nguyễn Anh Phong – Trường Đại học Kinh tế – Luật (Đại học Quốc gia TP.HCM) cho biết, cần tiếp tục chính sách hỗ trợ về thuế để tiếp sức cho doanh nghiệp.

“Cá nhân tôi vẫn ủng hộ Chính phủ tiếp tục duy trì chính sách gia hạn, giảm thuế như thực hiện trong năm 2022 vì đây chính là năm bản lề để các doanh nghiệp bắt đầu phục hồi sản xuất, tạo công ăn việc làm, các hoạt động dần hồi phục chứ chưa hoàn toàn phục hồi như trước đại dịch. Do vậy, việc duy trì chính sách gia hạn, giảm thuế là hết sức cần thiết nhằm giúp doanh nghiệp tiếp tục ổn định và phục hồi tổng cung, tổng cầu, góp phần tăng trưởng kinh tế tốt hơn, gia tăng phúc lợi cho các tầng lớp dân cư”, PGS.TS Nguyễn Anh Phong nói.

Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Anh Phong cũng đưa ra một số gợi ý để việc thực hiện chính sách tài khóa được hiệu quả hơn. Theo đó, Chính phủ cũng có thể sử dụng các biện pháp phi ngân sách, không có tác động ngay lập tức đến cân đối tài chính, như bảo lãnh tài trợ hay bảo lãnh tín dụng.

“Với tình hình giao thương gần như bình thường lại so với trước kia, do vậy bước sang năm 2023, Chính phủ cần đánh giá lại các gói nào cần duy trì để tiếp tục phục hồi kinh tế, gói nào cần cắt bỏ vì không còn phù hợp với bối cảnh mới”, PGS.TS Nguyễn Anh Phong đề xuất./.

]]>
Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan. https://trithucdoanhnhan.net/trai-qua-mot-nam-kinh-te-kho-du-lieu-voi-tat-ca-cac-to-chuc-du-bao-cung-nhu-chinh-phu-cac-nuoc-kinh-te-vi-mo-viet-nam-van-on-dinh-va-duy-tri-muc-lam-phat-duoi-4-nhu-muc-tieu-dat-ra-song-trong-boi-c/ Sat, 11 Feb 2023 12:17:28 +0000 https://www.trithucdoanhnhan.net/?p=3613

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

*****

Chưa bao giờ tinh thần điều hành chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả, với phương châm “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” và mục tiêu phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững lại được nhấn mạnh như thời gian qua và sẽ tiếp tục được Chính phủ thực hiện trong thời gian tới.

Phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững là một trong những mục tiêu trọng tâm đặt ra trong các văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế – xã hội, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội. Song song với đó, tín dụng ngân hàng cũng được kiểm soát một cách thận trọng, cùng với chính sách tài khóa linh hoạt.

Tuy nhiên, trong bối cảnh các doanh nghiệp đang xoay xở đối phó với nhiều trở ngại, nhất là về dòng vốn, vấn đề đặt ra là việc quản lý, điều hành thế nào để vừa ổn định nền kinh tế vừa hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn? Làm thế nào để tạo ra sự cân bằng, linh hoạt ở hiện tại nhưng vẫn xử lý được những “lỗ hổng” trên các thị trường, để hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai? Reatimes đã có cuộc trò chuyện với TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia Tài chính – Ngân hàng về vấn đề này.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Thưa ông, nhiều chuyên gia cho rằng, mặc dù có khó khăn nhưng hiện tại lại là cơ hội để Việt Nam cải tổ lại hệ thống tài chính, tạo ra hoạt động bền vững và nâng tầm thị trường trái phiếu. Ông có thể lý giải rõ hơn về vấn đề này?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Theo Bộ Tài chính, quy mô của thị trường vốn, bao gồm thị trường trái phiếu và cổ phiếu, trước thời điểm xảy ra khủng hoảng niềm tin (cuối quý I/2022) có giá trị vốn hóa đạt 134,5% GDP trong năm 2021. Riêng cổ phiếu đạt đến 94%, còn thị trường trái phiếu doanh nghiệp là 16,4% GDP và thị trường trái phiếu Chính phủ là 23%. Như vậy, thị trường vốn đang có tỷ trọng ngang ngửa với dư nợ tín dụng ngân hàng (11,6 triệu tỷ đồng, tương đương 132% GDP).

Khi trường trái phiếu doanh nghiệp đạt đến mức 16,4% GDP, rất nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là giới chuyên gia đã kỳ vọng, thị trường này sẽ dần thay thế và đỡ được gánh nặng cho thị trường tín dụng ngân hàng – vẫn đang là nguồn tài trợ lớn nhất của quốc gia song thực tế đã không như vậy. Có rất ít đợt phát hành thời gian qua. Minh chứng là đến cuối tháng 11/2022, quy mô của thị trường vốn giảm xuống còn 105% GDP năm 2021. Trong đó, trái phiếu doanh nghiệp giảm xuống còn 15% GDP. Những gì đã và đang xảy ra đối với trái phiếu chứng tỏ thị trường đang có vấn đề, hệ quả là sự mất niềm tin của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, khủng hoảng nào rồi cũng qua, không có thị trường nào chạm đáy rồi đứng nguyên tại chỗ, giống như khi giá của chứng khoán xuống đến mức thấp nhất thì có nhiều người đổ tiền vào mua, thúc đẩy thị trường phục hồi trở lại. Thành ra, chúng ta cũng không nên quá bi quan về thị trường trái phiếu hiện tại, bởi chắc chắn thị trường rồi sẽ phục hồi. Quan trọng là chúng ta rút ra được bài học gì từ quá khứ, bởi triển vọng tương lai sẽ tốt hơn nếu những bất cập trong quá khứ được điều chỉnh.

Trong quá khứ, thị trường trái phiếu đã được xây dựng trên một nền tảng pháp lý rất mỏng, trong khi đa phần nhà đầu tư tiềm lực yếu, thiếu chuyên nghiệp. Từ nhu cầu vốn của nền kinh tế, thị trường trái phiếu được thúc đẩy phát triển rất nhanh trong những năm qua. Thế nhưng tất cả các thành phần tham gia thị trường, từ nhà phát hành, nhà đầu tư cho đến các cơ quan quản lý giám sát… đều thiếu kinh nghiệm. Quy định, luật lệ cũng còn thiếu sót. Ngay cả Nghị định 65/2022/NĐ-CP về phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng tiếp tục được xem xét. Tất cả những điều đó là bài học để chúng ta xây dựng một thị trường ổn định và lành mạnh hơn trong năm 2023.

Tôi tin tưởng năm 2023 sẽ là năm mà thị trường trái phiếu phục hồi, nhưng phải dựa trên cơ sở khắc phục những thiếu sót của tất cả các bên liên quan để thay đổi và xây dựng một thị trường ổn định hơn.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Để phát triển an toàn, minh bạch, hiệu quả và bền vững, việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường vốn là vô cùng quan trọng, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Khung pháp lý luôn là nền tảng cho mọi thị trường, nếu lỏng lẻo, đến lúc nào đó thị trường sẽ đi vào rối loạn và khủng hoảng. Có thể thấy rõ ở thị trường trái phiếu Việt Nam, khung pháp lý của chúng ta phải thay đổi thường xuyên để phù hợp với môi trường kinh doanh còn nhiều biến động. Chúng ta đã có Nghị định 155/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu ra công chúng, Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành trái phiếu riêng lẻ. Vào tháng 9 năm nay, chúng ta tiếp tục sửa đổi, bổ sung Nghị định 153 thành Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Song, việc thay đổi thường xuyên như vậy chứng tỏ khung pháp lý chưa hoàn thiện, từ đó tạo ra rất nhiều lỗ hổng để một số nhà phát hành, môi giới và nhà đầu tư trục lợi.

Làm sao để phát triển thị trường an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững? Việc đầu tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý. Bộ Tài chính nên rà soát lại trong thời gian qua, Nghị định 65 với nhiều điều khoản tương đối mới đã được áp dụng như thế nào? Nếu doanh nghiệp chưa tuân thủ thì chúng ta phải tìm ra lý do tại sao? Thành ra, vấn đề điều chỉnh liên tục để có một khung pháp lý bền chặt là điều rất quan trọng.

Bộ Tài chính cũng đã trình Chính phủ Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP, trong đó có những điểm thay đổi quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề là khung pháp lý có hoàn thiện đến đâu chăng nữa mà tất cả các thành phần tham gia không tuân thủ hoặc chỉ tuân thủ một phần thôi thì đều vô nghĩa. Vì vậy, ý thức của tất cả thành phần tham gia thị trường, từ nhà phát hành, nhà đầu tư, các công ty kinh doanh, môi giới, cho đến các cơ quan giám sát phải được nâng cao, tuân thủ một cách tuyệt đối quy định pháp luật thì chúng ta mới có thị trường an toàn, minh bạch, hiệu quả và bền vững.

PV: Theo ông, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 65/2022/NĐ-CP cần lưu ý vấn đề gì để vừa kiểm soát, bình ổn thị trường nhưng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Chúng ta phải lựa chọn, hoặc đặt ra những điều kiện về phát hành trái phiếu chặt chẽ để tạo sự ổn định cho thị trường, hay là chúng ta buông lỏng để cho thị trường tự phát triển? Tất cả những quy định trong Nghị định 65/2022/NĐ-CP đều là những thông lệ trên thị trường quốc tế, phù hợp môi trường Việt Nam và cần phải thực hiện để đi đúng vào quỹ đạo của thị trường thế giới. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục xem xét.

Nghị định 65 đã có những bổ sung rất đáng kể và hữu ích, đó là yêu cầu nhà phát hành phải làm rõ vai trò của ngân hàng và khác biệt giữa bảo lãnh phát hành, bảo lãnh phân phối và bảo lãnh thanh toán. Thời gian trước, việc này đã gây ra sự hiểu lầm và khiến nhiều nhà đầu tư rơi vào rủi ro mà họ chưa từng biết. Song, vẫn cần làm rõ hơn vai trò cũng như trách nhiệm, quyền lợi của ngân hàng. Ai là người trả lương cho họ? Không phải trái chủ cũng như nhà phát hành, nhưng nếu không có người trả tiền thì sẽ không có đại diện pháp lý. Trong luật phải quy định có đại diện pháp lý… Do đó, tất cả cần phải xem xét lại để có sự điều chỉnh, bổ sung cho rõ ràng.

Ngoài ra, tôi cho rằng xếp hạng tín nhiệm là rất quan trọng, đặc biệt là nhìn từ phía nhà đầu tư thường thiếu kiến thức về tài chính. Tất cả nhà phát hành trái phiếu phải được xếp hạng tín nhiệm, bất kể phát hành ra số lượng bao nhiêu. Cần phải có một đơn vị đứng ra xếp hạng các công ty muốn phát hành, để nhà đầu tư biết họ đang ở mức đáng để đầu tư hay đang ở mức dưới – mức không khuyến khích đầu tư. Nghị định 65 có quy định xếp hạng tín nhiệm, nhưng chỉ dành cho các nhà phát hành lớn, như thế là chưa đủ.

Dĩ nhiên, cơ quan quản lý phải có những bước hỗ trợ thị trường và các doanh nghiệp trên sân chơi mới như tôi đã chia sẻ, đó là Chính phủ có thể đưa ra chính sách cho phép các nhà phát hành hoãn nợ trong vòng 1 năm và giúp các doanh nghiệp phát hành đúng quy định, theo một Nghị định 65 sửa đổi mới.

Việc sửa đổi Nghị định 65 toàn hệ thống gồm 3 thành phần: Nhà phát hành được điều chỉnh, nhà đầu tư được tạo niềm tin và Chính phủ, các cơ quan quản lý vào cuộc mạnh mẽ, tôi tin là thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam sẽ sớm hồi phục trong năm 2023.

Nhiều người lo ngại việc kiểm soát thị trường của các cơ quan quản lý sẽ làm mất đi khả năng phát triển, nhưng kiểm soát một cách hợp lý và hiệu quả sẽ là tiền đề để phát triển bền vững trong tương lai. Dĩ nhiên có những khó khăn trước mắt, nhưng sẽ tái lập niềm tin cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, từng bước đưa thị trường đi vào quy củ và ổn định.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định phải xử lý nghiêm các sai phạm về trái phiếu… đây là điều hết sức cần thiết để lành mạnh hoá thị trường. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khi quyết liệt xử lý các sai phạm cần giải pháp phù hợp để không ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Để một thị trường ổn định, rất cần kỷ luật tài chính, không có chuyện “xử lý khéo léo”. Khi đã sai phạm thì buộc phải xử lý theo pháp luật, nếu không, những lỗ hổng ngày một lớn dần và thị trường sẽ tiếp tục bất ổn. Tuy nhiên, cần minh bạch thông tin kịp thời để nhà đầu tư yên tâm theo dõi quá trình xử lý. Từ đó, họ có thể đặt niềm tin chừng nào thì lấy lại được tiền, tránh việc tất cả hoang mang tìm cách đòi nợ sẽ càng làm xấu hình ảnh của thị trường.

Bên cạnh đó, người Việt cũng có câu, đại ý là “đánh chuột đừng để vỡ bình”. Vấn đề chưa xử lý xong nhưng thị trường đã đổ vỡ là điều rất đáng tiếc. Hiện tại, rất nhiều nhà phát hành đang lúng túng vì bị các trái chủ yêu cầu mua lại trái phiếu trước hạn, mặc dù trong số đó cũng có những doanh nghiệp phát hành đúng quy định. Khi nhà phát hành không thể cơ cấu lại nợ bằng cách bán trái phiếu mới, yêu cầu này đã gây nên tình trạng “kẹt xe” cho cả hệ thống.

Bởi vậy, vấn đề hiện tại là hàn gắn sự đổ vỡ và tính toán làm sao để tránh được chuyện “vỡ bình”. Tôi đề xuất với Bộ Tài chính và Chính phủ, hãy có một chương trình hoãn nợ quốc gia, cho phép các nhà phát hành hoãn nợ trong vòng một năm cả gốc và lãi, đồng thời thuyết phục các trái chủ chờ đợi. Bởi theo nguyên tắc, chỉ một ngày chậm trả nợ là các nhà đầu tư có thể kiện cáo kéo họ ra tòa và mở thủ tục phá sản.

Tuy nhiên, doanh nghiệp phát hành không nên lo lắng luật lệ chặt chẽ quá, vì vấn đề quan trọng ở đây là cần lấy lại niềm tin. Khi niềm tin suy yếu thì dù doanh nghiệp có được phát hành trái phiếu cũng không ai mua. Vậy làm sao lấy lại được niềm tin? Có thể thấy, Chính phủ đang hết sức nỗ lực cải thiện, điều chỉnh thị trường để giúp doanh nghiệp tạo dựng niềm tin với nhà đầu tư.

Trước hết, phải sớm giải quyết dứt điểm những trường hợp có dấu hiệu sai phạm đang trong vòng điều tra, như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói, “không làm không được”. Tuy nhiên, cũng không nên xử lý sai phạm bằng cách kê biên tài sản, gây lo lắng cho nhà đầu tư và ảnh hưởng tâm lý thị trường.

Phía Ngân hàng Nhà nước cũng cần xem xét lại những sai phạm về phát hành trái phiếu trong hệ thống ngân hàng để tạo lại niềm tin. Đồng thời, các ngân hàng cần phải kiểm tra nội bộ để đưa ra quy trình chuẩn hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Chẳng hạn như phải làm rõ, trong thời gian phát hành trái phiếu có hiệu lực, nếu ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp hoặc trở thành người đại diện pháp lý cho các nhà đầu tư thì vai trò của họ là gì?

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Vai trò bình ổn thị trường không chỉ là trách nhiệm của nhà điều hành. Thực tế vừa qua cho thấy, một phần vì thiếu hiểu biết nên nhà đầu tư đã bị dẫn dụ vào các hoạt động mua bán thiếu an toàn rồi trở nên mất niềm tin. Hoạt động trong một thị trường vốn nhiều tiềm năng nhưng cũng còn nhiều rủi ro, nhà đầu tư cần làm gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Các nhà đầu tư phải hết sức cẩn trọng tìm hiểu bằng nhiều kênh khác nhau, không phải chỉ cần ngân hàng phát hành là đảm bảo. Đôi khi nhân viên ngân hàng chỉ tư vấn là trái phiếu này có bảo lãnh, nhưng người mua phải phân biệt rõ ba loại dịch vụ, đó là bảo lãnh phát hành, bảo lãnh phân phối và bảo lãnh thanh toán. Mức đảm bảo tăng theo từng cấp độ, như ở mức thứ 3, sau 10 – 20 năm, doanh nghiệp không thể trả nợ thì ngân hàng sẽ trả thay.

Bên cạnh đó, nhà đầu tư cần quan tâm đến rủi ro tín dụng. Liên quan đến khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp và để đánh giá hoàn toàn năng lực trả nợ của tổ chức phát hành, nhà đầu tư cần tìm hiểu về lịch sử kinh doanh, sự phát triển hay các yếu tố rủi ro tài chính của doanh nghiệp đã diễn ra trong quá khứ cũng như hiện tại. Nếu không có khả năng tìm hiểu về báo cáo tài chính, nhà đầu tư có thể nhờ ngân hàng hay bên thứ ba hỗ trợ phân tích.

Nhiều nhà đầu tư không nắm rõ mô hình kinh doanh của doanh nghiệp mà mua trái phiếu chỉ vì lãi suất cao, nhưng họ chưa hiểu rõ rủi ro có thể gặp phải trong quá trình nắm giữ trái phiếu đó. Nói tóm lại, người cho vay phải hiểu khả năng trả nợ của người đi vay, nhận định được giá trị của tài sản thế chấp. Việc nâng cao tính chuyên nghiệp và tính tuân thủ pháp luật là rất quan trọng để đầu tư an toàn và hiệu quả.

Trải qua một năm kinh tế khó dự liệu với tất cả các tổ chức dự báo cũng như chính phủ các nước, kinh tế vĩ mô Việt Nam vẫn ổn định và duy trì mức lạm phát dưới 4% như mục tiêu đặt ra. Song, trong bối cảnh thế giới liên tục biến động, việc quản lý thị trường vốn và điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ của các cơ quan quản lý cũng vô cùng gian nan.

PV: Vâng thưa ông, tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, kinh tế vĩ mô cuối năm 2022 và đầu năm 2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ hợp lý theo tinh thần chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả; các tổ chức tín dụng phát huy tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”. Ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tất cả những thông điệp này đều hợp lý, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có những nỗ lực trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và điều hành tiền tệ. Nhưng điều người dân và các nhà đầu tư luôn mong muốn nhìn thấy là hành động cụ thể của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính trong các vấn đề điều tra cho đến cải tổ thị trường, gây dựng lại niềm tin.

Đúng là trong cả năm 2022, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước bị dồn vào thế rất khó khăn. Một mặt phải đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 6,5 – 7%, trong khi đó phải kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4%, trong bối cảnh thế giới đang biến động dữ dội. Rõ ràng, việc điều hành sẽ rất khó suôn sẻ.

Có thể nói, Ngân hàng Nhà nước phải nhanh chóng đưa ra quyết sách dưới nhiều sức ép ghê gớm, như việc cố gắng kìm lãi suất và tỷ giá trong 3 quý đầu năm 2022, sau đó buộc phải tăng lãi suất điều hành cũng như tăng trần lãi suất huy động. Về phía tỷ giá, đã tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5%, chưa bao giờ có tiền lệ. Động thái tăng trần tín dụng thêm 1,5 – 2%, từ 14% lên 15,5 – 16% vào tháng 12/2022 cũng là bước điều hành chính sách tiền tệ tuy hơi chậm nhưng rất đáng hoan nghênh. Nếu mức tăng tín dụng thêm 2%, tương đương 240.000 tỷ đồng, cộng với khoản chưa sử dụng hết trong mức tăng tín dụng cũ 14%, thì nền kinh tế sẽ có khá nhiều vốn đổ vào, tuy nhiên vẫn là hướng vào các lĩnh vực ưu tiên.

PV: Vậy trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp bất động sản ra sao, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tôi cho rằng, tự thân doanh nghiệp bất động sản cần chủ động thay đổi. Thực tế, có rất nhiều sản phẩm bất động sản không phù hợp với túi tiền số đông người Việt Nam. Ở Hà Nội hay TP.HCM đều có rất nhiều bất động sản cao cấp, sang trọng, giá cao hơn cả Singapore hay Hồng Kông (Trung Quốc), như vậy liệu có phục vụ đại chúng hay không? Trong khi, GDP bình quân đầu người của Việt Nam ở mức hơn 4.000 USD, cứ cho thu nhập của một người dân bình thường là hơn 400 USD/tháng, thì phải rất lâu họ mới có thể mua được nhà, chứ chưa nói đến việc sở hữu hay sử dụng các tiện ích ở các khu vực cao cấp. Vậy nên, thị trường bất động sản, các doanh nghiệp bất động sản phải tự điều chỉnh để có cơ cấu sản phẩm phù hợp với xã hội.

Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng cũng nên giúp doanh nghiệp bất động sản làm ăn chân chính, bài bản, có những sản phẩm đóng góp cho vấn đề an sinh và sự phát triển kinh tế – xã hội, như những nhà kinh doanh, nhà xây dựng bất động sản với các sản phẩm nhà ở cho người thu nhập thấp, thu nhập trung bình, những chung cư trung cấp, nhà ở cho công nhân.

PV: Nhiều khó khăn vẫn đang hiện hữu, nên doanh nghiệp và thị trường vẫn cần thêm những giải pháp khác, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Trước hết, các ngân hàng thương mại cần sàng lọc, loại trừ đầu cơ nhưng vẫn nên đảm bảo đáp ứng được nhu cầu vay mua nhà ở cho người dân. Họ đang khao khát nhà ở, nhưng room tín dụng đã hết, thì phải làm gì? Có thể Ngân hàng Nhà nước nên ban hành ngay chính sách cho vay bất động sản mới, phù hợp với tình hình mới, trong đó vấn đề thẩm định tài sản đảm bảo phải được quy định chặt chẽ theo các chuẩn mực mới. Một đề xuất của tôi cho chính sách tiền tệ là Ngân hàng Nhà nước hãy khẩn trương giúp Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ kinh tế, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp và 15.000 tỷ đồng cho người dân vay mua nhà ở xã hội.

Về dài hạn, thị trường bất động sản cần đi vào quy củ và tìm đến nguồn vốn bền vững. Việt Nam đã nghĩ đến chứng khoán hóa nhiều năm nhưng chưa thực hiện được vì pháp lý và các vấn đề tài sản đảm bảo có sự nhập nhằng, thiếu nhiều công cụ và điều kiện cho vấn đề chứng khoán hóa. Đã đến lúc Việt Nam cần quyết liệt hơn để đưa công cụ tài chính là chứng khoán hóa các món vay bất động sản vào thực tiễn.

Các ngân hàng cũng như công ty tài chính cho vay ở Mỹ cũng không có tiền cho vay mấy chục năm, nhưng tại sao người dân vẫn được vay mua nhà từ 10 – 30 năm với lãi suất tuyệt vời 5,5% ở thời điểm hiện tại, không thay đổi trong cả 30 năm? Đó là nhờ việc các ngân hàng đóng gói lại những món vay đó, bao gồm cả tài sản đảm bảo và phát hành chứng khoán dựa trên gói đó, sau đó bán cho Chính phủ, các hãng bảo hiểm và các nhà đầu tư dài hạn.

Ngoài ra, quỹ tín thác REIT cũng là kênh đáng tham khảo. Đây là công cụ rất tốt để các doanh nghiệp bất động sản nhận vốn từ các quỹ REIT, thế nhưng kênh vốn này đang khá èo uột ở Việt Nam. Một trong những nguyên nhân là người dân chưa quen với việc đầu tư qua trung gian, giao tiền cho một công ty tín thác để họ đầu tư giúp. Thay vào đó, họ thường mua luôn bất động sản hoặc cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp. Nhưng để hướng đến tương lai bền vững thì cơ quan quản lý và nhà đầu tư cũng nên thay đổi tư duy. Có vậy mới phát triển được những thị trường vốn mới.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Ngà – Hà Trang
Thế Công

Bài viết cùng tác giả Thu Ngà – Hà Trang »

]]>