Trong thời gian tới, nhằm đảm bảo sự vận hành liên tục, thông suốt của thị trường chứng khoán, thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng bền vững, an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đang và sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
*****
I. BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NĂM 2022
Năm 2022 được đánh giá là một năm thách thức của kinh tế thế giới. Tuy kinh tế toàn cầu trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch Covid-19 nhưng tốc độ còn chậm và phải đối mặt với nguy cơ suy thoái trên diện rộng. Sau các biện pháp hỗ trợ kinh tế trong đại dịch Covid-19, lạm phát đã tăng mạnh tại nhiều quốc gia khiến nhiều nền kinh tế phải điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt với nhịp độ nhanh, mạnh nhằm kiểm soát lạm phát. Trong năm 2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tăng lãi suất điều hành thêm 3,75 điểm % qua 6 lần điều chỉnh liên tiếp, trong đó có 4 lần liên tiếp tăng 0,75 điểm % vào tháng 6, 7, 9 và 11/2022. Đây là bước điều chỉnh lãi suất mạnh nhất kể từ năm 1994, cho thấy quyết tâm của FED trong việc đưa lạm phát trở lại mức kiểm soát. Tương tự, Ngân hàng Trung ương Anh đã điều chỉnh tăng lãi suất 8 lần liên tiếp kể từ tháng 12/2021, lên mức 3%. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng ba lần điều chỉnh tăng lãi suất trong năm 2022 trong bối cảnh lạm phát tiếp tục xu hướng tăng ở khu vực này. Động thái thắt chặt chính sách tiền tệ trên thế giới làm dấy lên lo ngại về rủi ro “suy thoái – lạm phát” ở một số quốc gia. Các tổ chức quốc tế theo đó cũng liên tục điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2022 và 2023: IMF (10/2022) hạ mức dự báo xuống còn 3,2% cho năm 2022 và 2,7% cho năm 2023, trong khi Ngân hàng thế giới (9/2022) ước tính tăng trưởng GDP toàn cầu sẽ giảm xuống còn 0,5% trong năm 2023.
Tình hình địa chính trị thế giới cũng tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường trong năm qua. Xung đột Nga – Ukraine, căng thẳng giữa các nước lớn và chiến lược Zero-Covid của Trung Quốc tiếp tục được triển khai đã làm trầm trọng hơn tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu; giá cả lương thực, năng lượng theo đó tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào của các doanh nghiệp, đồng thời làm gia tăng áp lực lạm phát lên các nền kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế – chính trị diễn biến phức tạp, thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế giới cũng trải qua nhiều biến động trong năm 2022. Tính đến ngày 30/11/2022, chỉ số chứng khoán toàn cầu MSCI ACWI đã giảm 18,2%; chỉ số CAC 40 của Pháp giảm 5,8%, chỉ số DAX của Đức giảm 9,4%, chỉ số KOSPI của Hàn Quốc giảm 17%, chỉ số Shang Hai của Trung Quốc giảm 12,9%, chỉ số Hang Seng của Hồng Kông (Trung Quốc) giảm 20,5%, chỉ số S&P500 của Mỹ giảm 14,4% so với cuối năm 2021.
Tại Việt Nam, trong năm 2022, bất chấp những khó khăn mà nền kinh tế thế giới phải đối mặt, nền kinh tế Việt Nam phục hồi mạnh mẽ. Các hoạt động kinh tế được khôi phục, tiêu dùng nội địa phục hồi, hoạt động du lịch quốc tế cũng được mở cửa trở lại sau đại dịch Covid-19. Theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2022 của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp của Việt Nam tăng 8,6%; số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động lũy kế 11 tháng tăng 32,2%; xuất khẩu hàng hoá 11 tháng năm 2022 của Việt Nam cũng tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong khi đó, lạm phát vẫn được kiểm soát tốt; bình quân 11 tháng năm 2022, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lạm phát cơ bản tăng 2,38%.
Tuy nhiên, sau các bước điều chỉnh lãi suất liên tục của FED trong thời gian vừa qua, trước áp lực điều hành tỷ giá khi đồng USD tăng, tiềm ẩn nguy cơ nhập khẩu lạm phát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần điều chỉnh tăng lãi suất điều hành nhằm kiểm soát lạm phát và giảm tác động từ bên ngoài. Mặt bằng lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng thương mại theo đó cũng liên tục gia tăng, thu hút dòng tiền quay trở lại hệ thống ngân hàng.
II. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG NĂM 2022
1. Thị trường cổ phiếu
Trước ảnh hưởng của các biến động về kinh tế – chính trị trên thế giới cũng như các bước điều chỉnh chính sách trong nước, TTCK Việt Nam trong năm 2022 cũng đã trải qua nhiều biến động, với xu hướng giảm điểm bắt đầu từ tháng 4, trong đó có những nhịp phục hồi vào tháng 5 và tháng 8 và cuối tháng 11 đến nay. Tính đến ngày 30/11/2022, chỉ số VN-Index đạt 1048,42 điểm, giảm 30% so với cuối năm 2021. Trong khi đó, chỉ số HNX-Index đóng cửa ở mức 208,79 điểm, giảm 56% so với cuối năm trước. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu 3 sàn HOSE, HNX và UPCoM ngày 30/11/2022 ước đạt 5.383 nghìn tỷ đồng, giảm 30,7% so với cuối năm 2021, tương đương 63,5% GDP.
Về quy mô niêm yết và đăng ký giao dịch (ĐKGD), đến cuối tháng 11/2022, thị trường có 757 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) và 859 cổ phiếu ĐKGD trên UPCoM với tổng giá trị niêm yết, ĐKGD đạt 1.970 nghìn tỷ đồng, tăng 13,26% với cuối năm 2021, tương đương 23,2% GDP.
Thanh khoản thị trường cũng có xu hướng giảm liên tục trong giai đoạn này, với giá trị giao dịch bình quân giảm từ 26.299 tỷ đồng/phiên trong tháng 4 xuống còn 13.017 tỷ đồng/phiên trong tháng 11. Tính chung 11 tháng năm 2022, giá trị giao dịch bình quân đạt 20.556 tỷ đồng/phiên, giảm 22,7% so với bình quân năm 2021. Những biến động trên TTCK nêu trên chủ yếu xuất phát từ tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về kinh tế – chính trị thế giới.
2. Thị trường trái phiếu
Trái phiếu chính phủ
Đến cuối tháng 11/2022, thị trường có 389 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt hơn 1.651 nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% so với năm 2021. Về quy mô giao dịch, tính chung 11 tháng năm 2022, giá trị giao dịch bình quân đạt 8.062 tỷ đồng/phiên.
Trái phiếu doanh nghiệp
Trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), khối lượng phát hành có xu hướng giảm trong thời gian qua. Tính đến ngày 25/11/2022, khối lượng phát hành TPDN là 331.811 tỷ đồng, giảm 31,6% so với cùng kỳ năm 2021 và có xu hướng giảm dần qua các quý.
Về cơ cấu phát hành, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản, xây dựng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng phát hành. Tính đến ngày 25/11/2022, các NHTM phát hành chiếm 41%, các doanh nghiệp bất động sản và xây dựng chiếm lần lượt 28,59 % và 7,73% tổng khối lượng phát hành, doanh nghiệp sản xuất chiếm 6,72% tổng khối lượng phát hành.
Về cơ cấu nhà đầu tư, các NHTM và công ty chứng khoán là các nhà đầu tư chính mua TPDN riêng lẻ, sở hữu lần lượt 45,3% và 23,91% tổng khối lượng phát hành. Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân chiếm 9,44% tổng khối lượng phát hành.
Hoạt động mua lại trước hạn gia tăng, với tổng khối lượng trái phiếu mua lại lũy kế từ đầu năm là 161.656 tỷ đồng, tăng 14,1% so với cả năm 2021. Trong khi đó, khối lượng TPDN đáo hạn tháng 12/2022 là 42,2 nghìn tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp bất động sản là 19.287 tỷ đồng (99,5% có tài sản đảm bảo), tổ chức tín dụng là 9.828 tỷ đồng, doanh nghiệp sản xuất là 7.854 tỷ đồng (Vinfast là 7,72 nghìn tỷ đồng), doanh nghiệp thương mại, dịch vụ là 2.100 tỷ đồng.Trong năm 2023, khối lượng đáo hạn cả năm là 282,167 nghìn tỷ đồng. Riêng quý I/2023, dự kiến đến hạn 35,9 nghìn tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu thời gian qua có nhiều khó khăn, chủ yếu xuất phát từ sự sụt giảm niềm tin của thị trường do sai phạm của một số doanh nghiệp vừa bị xử lý, cũng như việc một số phương tiện đưa tin không chính thống, tin thất thiệt về một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và tâm lý nhà đầu tư; việc kiểm tra, giám sát tập trung vào giám sát mục đích phát hành trái phiếu cũng dẫn đến tâm lý quan ngại của cả doanh nghiệp phát hành và tổ chức cung cấp dịch vụ. Thanh khoản của thị trường cũng trong thời gian qua khi lãi suất ngân hàng tăng, dòng tiền có xu hướng dịch chuyển sang hệ thống NHTM và các doanh nghiệp khó khăn trong cân đối nguồn vốn kinh doanh và trả nợ trái phiếu đến hạn.
3. TTCK phái sinh
TTCK phái sinh tiếp tục diễn ra sôi động, với khối lượng giao dịch bình quân của hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 tính chung 11 tháng năm 2022 đạt 259.478 hợp đồng/phiên, tăng 37% so với bình quân năm 2021. Khối lượng mở (OI) toàn thị trường tính đến ngày 30/11/2022 đạt 51.635 hợp đồng, tăng 66% so với cuối năm 2021.
Về sản phẩm chứng quyền có bảo đảm, tính chung 11 tháng năm 2022, khối lượng giao dịch chứng quyền đạt 31,97 triệu chứng quyền/phiên, tăng 50% so với bình quân năm 2021; tuy nhiên, giá trị giao dịch bình quân chỉ đạt 22,18 tỷ đồng/phiên, giảm 69% so với bình quân năm 2021.
Về sản phẩm hợp đồng tương lai trên trái phiếu chính phủ 5 năm, tính chung 11 tháng năm 2022, tổng khối lượng giao dịch đạt 110.986 hợp đồng. Sản phẩm hợp đồng tương lai trên trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm chính thức được đưa vào giao dịch vào ngày 28/6/2021, với tổng khối lượng giao dịch tính từ đầu năm đến nay đạt 10.000 hợp đồng.
III. TRIỂN VỌNG TTCK VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Bước sang năm 2023, trước tình hình lạm phát Mỹ có dấu hiệu hạ nhiệt trong một vài tháng vừa qua, FED được kỳ vọng sẽ điều chỉnh giảm cường độ tăng lãi suất. Áp lực tỷ giá trong nước theo đó cũng sẽ giảm dần. Đây sẽ là tín hiệu tích cực cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng. Ngoài ra, dịch bệnh được kiểm soát tốt, các yếu tố nền tảng vĩ mô và cân đối lớn cơ bản được giữ vững, trong tầm kiểm soát, các hoạt động kinh tế, tiêu dùng nội địa và du lịch quốc tế dần được khôi phục. Hoạt động doanh nghiệp dù khó khăn hơn trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới nhưng vẫn khả quan. Nhiều tổ chức quốc tế vẫn đánh giá cao kết quả và triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Báo cáo Triển vọng kinh tế châu Á của IMF (tháng 10/2022) dự báo tăng trưởng GDP thực của Việt Nam cao nhất trong ASEAN, đạt 7% trong năm 2022 và 6,2% trong năm 2023. Ngoài ra, chỉ số P/E của TTCK Việt Nam hiện đang ở mức 11,3 và được đánh giá ở mức hấp dẫn, thấp hơn so với hầu hết các thị trường khác trên thế giới. Tất cả những yếu tố trên cho thấy TTCK Việt Nam vẫn còn tiềm năng tăng trưởng trong trung và dài hạn.
(Ảnh: Thời báo ngân hàng)
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng trong thời gian tới vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nếu lãi suất huy động tiếp tục gia tăng như trong giai đoạn vừa qua thì dòng tiền sẽ tiếp tục quay trở lại hệ thống ngân hàng, đồng thời gây áp lực đến lãi suất cho vay, ảnh hưởng tới chi phí vốn vay của doanh nghiệp trong nước; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian tới có thể khó khăn hơn. Ngoài ra, việc lạm phát vẫn duy trì ở mức cao, lãi suất gia tăng trong thời gian qua và triển vọng kinh tế tăng trưởng chậm lại của một số nền kinh tế lớn sẽ khiến nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu của người dân các nước này sụt giảm, nhất là tại các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam như Mỹ, EU; điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam do vậy cũng có thể chậm lại trong thời gian tới. Bên cạnh đó, xung đột địa chính trị trên thế giới tiếp tục kéo dài cũng tiềm ẩn tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng.
IV. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TTCK
Có thể thấy, khó khăn là có nhưng cơ hội vẫn còn cho TTCK Việt Nam. Trong thời gian tới, nhằm đảm bảo sự vận hành liên tục, thông suốt của TTCK, thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng bền vững, an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, UBCKNN đang và sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây.
Thứ nhất, về hoàn thiện khung pháp lý và thể chế, UBCKNN đang rà soát tổng thể các quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn nhằm khắc phục ngay những bất cập, vướng mắc, từ đó khôi phục niềm tin và đảm bảo sự phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững của TTCK.
Thứ hai, về công tác giám sát, thanh tra trên TTCK, việc nâng cao vai trò và trách nhiệm của các tuyến giám sát, trong đó coi trọng tuyến giám sát thứ nhất là các công ty chứng khoán là cần thiết nhằm bảo đảm một thị trường vận hành minh bạch, hiệu quả.
Theo đó, UBCKNN sẽ tăng cường giám sát các công ty chứng khoán thực hiện đúng và đầy đủ vai trò là chủ thể giám sát tuyến đầu theo quy định tại Luật Chứng khoán 2019 và các văn bản hướng dẫn để kịp thời ngăn ngừa và phát hiện sớm các vi phạm trên thị trường. Ngoài ra, UBCKNN sẽ đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác thanh tra, giám sát; hoàn thiện và đưa vào sử dụng Hệ thống giám sát giao dịch nâng cấp với các tính năng phân tích, cảnh báo, thống kê; kết nối các cơ sở dữ liệu dùng chung với SGDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán khi hệ thống công nghệ thông tin mới được đưa vào sử dụng.
Bên cạnh đó, UBCKNN sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến của TTCK trong nước và quốc tế; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan đẩy mạnh công tác giám sát hoạt động giao dịch trên TTCK, có cảnh báo sớm đối với nhà đầu tư về các rủi ro (nếu có) của TTCK; tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trên TTCK nhằm tăng tính răn đe, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trên thị trường, hướng đến sự phát triển TTCK theo hướng minh bạch và bền vững.
Thứ ba, về hoạt động tổ chức thị trường, việc đẩy nhanh tiến độ đưa vào vận hành hệ thống công nghệ thông tin KRX nhằm tạo điều kiện triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới trên TTCK và bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, liên tục, an toàn, hiệu quả; đồng thời, UBCKNN đang chỉ đạo các bên liên quan chuẩn bị nền tảng giao dịch TPDN chào bán riêng lẻ nhằm phát triển một thị trường giao dịch TPDN thứ cấp minh bạch, an toàn, tăng cường khả năng quản lý, giám sát, giảm thiểu rủi ro; đẩy mạnh công tác tái cấu trúc TTCK, nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng của các định chế trung gian thị trường thông qua việc tiếp tục thực hiện tái cấu trúc công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ tư, về công tác truyền thông ổn định tâm lý, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, trong thời gian tới, tăng cường thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời tới công chúng đầu tư để ổn định tâm lý thị trường, giúp các doanh nghiệp, nhà đầu tư an tâm tham gia huy động và đầu tư trên thị trường vốn, đồng thời tăng cường sự tham gia của các định chế, nhà đầu tư chuyên nghiệp, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn như các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí tự nguyện, doanh nghiệp bảo hiểm…
Thứ năm, UBCKNN sẽ tích cực phối hợp với các tổ chức quốc tế triển khai các giải pháp để sớm nâng hạng TTCK Việt Nam theo lộ trình đã đặt ra nhằm thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam./.
Bài viết cùng tác giả Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước »